Chúa là Đấng nhân hậu từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng"
“Tư tưởng của ta không phải là
tư tưởng của các người, và đường lối của các người không phải là đường lối của
Ta”. Lời đã được tiên tri Isaia nói đến, nay một lần nữa, Đức Giê-su nói rõ qua
dụ ngôn "Người chủ vườn nho" và Ngài khẳng định, đó là hình ảnh của
Nước Trời. Nhưng quả đúng như lời tiên tri Isaia đã nói, đó thực sự là cả một
khối đầy nghịch lý theo cách thế loài người. Vậy điều gì ẩn dấu sau khối nghịch
lý ấy?
Trước hết, ta có thể nhận thấy
cách thức, gọi người làm công của ông chủ kia thực không bình thường. Nếu nhìn
dưới góc độ kinh tế, thì có lẽ có người sẽ chê, ông này không biết làm ăn. Một
ông chủ tư bản sẽ lợi dụng tối đa sức lao động của nhân công, trong khi hạn chế
tối đa việc trả lương, hầu thu về nguồn tư bản là tiền lời thật nhiều. Nếu có
ông nào đó hào phóng thì chẳng qua cũng là cách thức để lợi dụng cách khôn
ngoan sức lao động của nhân công mà thôi. Ví dụ, chế độ khen thưởng, kỷ luật,
tăng hay hạ bậc lương thực ra không nhắm đến người lao động cho bằng để có được
một guồng máy làm việc tốt, hiệu quả và thu lời nhiều hơn. Hơn nữa, các ông chủ
tư bản không tuyển người cách bừa bãi, họ đòi hỏi phải có kinh nghiệm, phải qua
phỏng vấn, thử việc...Vậy mà ông chủ này, hình như đã không biết những điều đó,
hay ông không quan tâm đến điều đó? Ông tuyển lao công một cách lộn xộn, thậm
chí có thể nói là rất bừa bãi. Đã thế, ông còn một cách trả lương không giống
ai. Có người nói, cứ cho là ông ta có núi vàng đi nữa, thì với cách trả lương
đó, không chóng thì chầy cũng sạt nghiệp. Ông ta trả cho người làm cả ngày cũng
bằng người làm một giờ. Tại sao ông ta không nghĩ, như thế chẳng những không
khuyến khích được người lao động hăng say làm việc, mà có khi còn gây ra tư
tưởng chán nản cho những người đã làm từ sáng sớm, đồng thời tạo cho những
người đến sau sự dễ dãi.
Nói tóm lại, dưới cái nhìn của
một nhà kinh tài, sự không thể học được điều gì từ cách làm của ông chủ mà Đức
Giê-su đã nói. Nhưng rõ ràng, Đức Giê-su không nói về một mẫu người làm ăn
ngoài đời mà ngay từ câu đầu tiên, Ngài đã khẳng định, đây là một mặc khải về
Nước Thiên Chúa: "Nước Trời giống như". Vậy, đằng sau câu chuyện kinh
tế đầy nghịch lý kia, Đức Giê-su muốn nói gì?
Trước hết là việc ông chủ đi
gọi thợ làm vườn. Ông không đợi người ta tìm mình, trái lại chính ông đến tìm,
hỏi họ, mời họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho". Và dường như
ông luôn đi tìm họ. Ở đây, Đức Giê-su đang nói về việc những người được gọi vào
vườn Thiên Chúa. Thiên Chúa đi tìm con người, tìm họ mọi lúc và không đợi họ
trình bày thỉnh cầu, trái lại, Ngài đi trước mời gọi họ. Những giờ khắc khác
nhau của việc ông chủ vườn nho đi tìm thợ, khiến ta nghĩ đến những giai đoạn,
thời khắc khác nhau, Ngài tìm đến kêu gọi chúng ta. Ngài mời gọi tất cả mọi
người, bất luận họ đang ở trong tình trạng nào. Đội nhân công của Ngài tập
trung mọi thành phần, không phân biệt giai cấp, đảng phái, trình độ, địa vị xã
hội, và nhất là tình trạng tâm hồn. Dù họ đang ở đâu, lúc nào và tình trạng
nào, Ngài vẫn đi tìm để gọi họ. Điều mà tiên tri Isaia đã nói: "Ngài ở
gần". Người trộm lành bên thánh giá, anh ta hẳn không ở giờ thứ mười một
nữa, mà chắc đã cuối giờ 12 rồi, vậy mà anh vẫn được gọi với một lời hứa chắc
chắn: "Thật đêm nay, người sẽ được ở trên thiên đàng với Ta".
Thứ đến và việc trả công. Đây
là phần rất quan trọng, điều hoàn toàn trái ngược với lẽ công bằng thường thấy.
Ông chủ vườn nho trả công cho mỗi người theo cách của ông, không có một quy
định bậc lương nào cả. Mỗi người đến trước đến sau đều được một đồng. Những
người kia thắc mắc hoàn toàn không có gì sai theo cách thức của người làm công
thế gian, nhưng lại không đúng trong vườn Thiên Chúa. Vì thực ra không ai được
phép kể công trước mặt Thiên Chúa, bởi thực ra, con người nào có công trạng gì.
Tất cả là đều nhờ hồng ân Chúa ban. Hơn nữa, Thiên Chúa không trả công cho con
người theo những gì họ làm, mà là những
gì họ cần. Người vào vườn trước hay vào vườn sau, điều đó không quan trọng,
nhưng cái đáng để ý, là họ cần những gì. Người vào vườn sau không có nghĩa là
họ có ít những nhu cầu, trái lại có khi họ còn thiếu thốn bội phần. Và ông chủ
vườn trả cho họ theo những gì họ đang thiếu, họ mong muốn. Nói cách khác, Thiên
Chúa luôn muốn cho con người được hưởng hạnh phúc viên mãn trong nước của Ngài.
Câu chuyện Tin mừng trở thành
một mặc khải, cảnh tỉnh những ai tự cho mình là đạo đức, là xứng đáng để được
điều này, điều kia, xứng đáng được liệt vào hạng này, thứ khác. Nhưng đồng
thời, lời mời gọi "hãy vào vườn nho Ta" cũng trở thành lời hiệu triệu
cho tất cả những ai, dù đang trong tình trạng nào, đều có thể trở về trong bình
an, hoan lạc của Thiên Chúa. Điều đáng nói và cũng là điều đáng học nơi những
người thợ giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mươi một là, họ đã mau mắn mà
không nghi ngại, liệu vào trễ như thế, tiền lương có ăn thua gì không. Trái
lại, họ đã đi mà không hề đặt điều kiện nào, một thỏa thuận nào. Thiết nghĩ,
trong mỗi ngày sống, nhất là khi ta quyết định dấn thân cho điều gì đó, trước
hết và sau cùng, đừng bao giờ tự đặt cho mình một giới hạn ân sủng, nhưng hãy
bước vào đó như một ân huệ, một hồng ân như có lời thánh thi: "Chúng con
vừa được Chúa gọi vào; công sá đâu gì kể thấp cao. Chỉ mong giúp sức làm hiện
tại, rồi việc chắc Ngài sẽ thưởng sau". Lại nữa, chúng ta đừng vạch làn
ranh cho người khác khi họ có thiện chí muốn trở về, đừng tự cho mình cái quyền
phán xét khi nhận định ai mới là kẻ xứng đáng hưởng ân huệ này, ân huệ khác.
Tất cả là của Thiên Chúa, Ngài ban cho ai thì tùy thuộc vào lượng hải hà của
Ngài. Và chắc chắn Ngài không bao giờ để chúng ta phải thiệt thân, một khi
chúng ta thành tâm nghe theo lời Ngài mời gọi.
Lạy Chúa, chúng con cũng là những người đã được Chúa gọi vào, và điều đáng nói là không phải một lần mà là nhiều lần, gọi vào chưa làm, hoặc vừa mới làm đã bỏ cuộc vì sợ vất vả; lại có khi mới làm chưa được bao nhiêu, đã nghĩ chuyện lĩnh công. Và không biết những người vào từ sáng sớm, có chuyên tâm làm việc không, hẳn là ông chủ thấy rõ tinh thần làm việc của họ, bản thân họ thì biết rõ hơn ai, và họ đã được một đồng đúng như họ thỏa thuận. Còn con, ngày ngày vẫn nhận ân lộc của Chúa, những ân lộc nhưng không, trong khi việc làm của con thì quá trễ nải, ươn lười và lắm khi còn đi ngược với ý đinh tốt lành của Ngài.
Cái tôi ngự trị, tính ích kỷ đã lấn át chỉ biết nghĩ tới mình, quên đi nhu cầu của tha nhân, đến với Chúa nhưng hồn con còn để trong lòng những hằn thù, ích kỷ. Lạy Chúa, đôi khi con còn phân bì với cả Chúa nữa, có những nguời suốt đời xa Chúa nhưng tới giờ chết lại giục lòng ăn năn để quay về, đuợc Chúa đón về thiên đàng, con phân bì vì nghĩ rằng, con thiệt thòi đã vất vả giữ đạo từ bé mà chẳng hơn gì. Chúa đã cư xử với mọi nguời bằng tình thuơng, tấm lòng. Tất cả là hồng ân, là tình thuơng quảng đại vì lợi ích của chúng còn mà thôi. Và mỗi khi có ai ganh tị với con, xin cho con đừng lấy đó làm bực tức, nhưng biết lấy lời này là: Nếu chúa chấp tội nào ai đứng vững. Và cũng vì lời đó mà cho con biết cư xử công bình hơn, để vươn tới tình thương.
Lạy Chúa, con biết rồi, Ngài chờ con, luôn chờ đợi con như người cha chờ đợi đứa con trở về, không một chút giận dữ nhưng đầy bao dung. Xin cho con đừng vì những mặc cảm tội lỗi mà không dám quay lại nhà mình, lại đừng để con, vì tiếc nuối những thú vui chóng qua nhưng đầy nguy hiểm, luôn đẩy chúng con vào sự thiếu thốn, mà luôn can đảm dứt bỏ nó, đoạn tuyệt với nó để trở về trong hy vọng.
Lạy Chúa, xin đừng để Chúa phải chờ con quá lâu. Xin đừng để con trở thành vật cản, khiến người khác không thể trở về.