Giang
Sơn
Lời
giới thiệu của người dịch
«Biết
mình» trong đời sống
là một vấn đề quan trọng bởi lẽ có biết mình, người ta mới có thể ứng xử phù hợp
với hoàn cảnh xã hội nhờ đó có thể đạt đến thành công là mục tiêu mình đưa ra
trong mọi công việc. Triết gia như Socrate thì nói «Bạn hãy tự biết mình» (Connaîs-toi toi-même). Nhà quân sự thì nói,
«Tri kỷ, tri bỉ bách chiến bách thắng»,
còn những bậc tu hành như thánh Augustino thì nói, «Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa...»
Theo nhiều học giả, muốn biết mình
chúng ta phải tham khảo hai nguồn tư liệu quan trọng là lịch sử và văn hóa, đó
là bối cảnh trên đó hình thành tính cách của mỗi con người. Vậy lịch sử và văn
hóa VN đã hình thành tính cách người VN nói chung như thế nào? Chúng ta sẽ lược
qua những nét chính có tính quyết định đến sự hình thành nhân cách VN.
I.
Lịch sử: Hai thời kỳ
dài bị đô hộ, Bắc thuộc 1000 năm, thực dân Pháp 100 năm. Chắc chắn những thời kỳ
nô lệ này đã gây chấn thương vào tâm lý VN, đặc biệt là mặc cảm tự ti kéo theo
những tính cách tiêu cực khác:
*
Mặc cảm tự ti dẫn đến
Thụ
động
Đè
nén, phá hoại
Tránh né, che giấu, đối phó
Mặt khác cơ chế bảo vệ (protective
mecanism) bù đắp cho tự ti mặc cảm đó bằng một thái độ tự tôn và những tính
cách tiêu cực khác:
*
Mặc cảm tự tôn dẫn đến
Lấn lướt,
bắt nạt
Bè phái, bao che, kỳ thị
Tư lợi, biển thủ
II.
Văn hóa: Hai đặc
trưng của văn hóa Việt Nam là Văn hóa lúa nước và văn hóa làng xã. Nước sông
mang phù sa thuận lợi cho cây lúa. Mặt khác thủy triều lên xuống bất định, âm
thầm len lỏi, che giấu lòng sông khiến hình thành (theo nguyên lý: ở bầu thì
tròn, ở ống thì dài) tính cách uyển chuyển nhưng khúc hiểm (xấu là hiểm ác, nhẫn
tâm; tốt là thích nghi nhanh, biến ảo) cùng tính cách không ổn định (giống như
con nước) dễ thay đổi. Lũy tre làng vừa là tường thành bảo vệ, vừa là bức tường
ngăn cách với thế giới bên ngoài, với cái khác
mình, tuy có tạo ra sự đoàn kết nhưng cũng sinh ra sự chủ quan, bè phái, hám
danh và lòng ganh tỵ.
Về mặt tự nhiên, văn hóa VN còn bao gồm
cả hai tư tưởng lớn là Nho giáo phong kiến và Phật giáo. Ngoài những điều tích
cực mà hai tư tưởng ấy đã đem đến cho dân tộc trong suốt thời phong kiến như trọng
lễ nghĩa, thích tôn ty, từ bi hỷ xả v.v... mà không ai có thể chối cãi. Nhưng đến
khi Á Đông gặp gỡ văn hóa Tây Phương thì hai tư tưởng này do thiếu thích nghi
và tự mãn đã để lộ ra những điểm tiêu cực của nó:
• Nho giáo phong kiến → Quan liêu, gia
trưởng, lối sống hai mặt (đội trên đạp dưới)
• Phật giáo: Tư tưởng duy tâm chủ quan
→ thụ động, vô cảm, thờ ơ
III.
Một đề nghị: Các nhà
văn hóa và tư vấn tâm lý đề nghị một giải pháp hoặc có thể nói một bài thuốc để
canh tân tâm lý VN luôn bị dao động giữa hai cực tự ti và tự tôn. Vì với những
tính cách như thế (nói theo y khoa là bị bội nhiễm), người VN khó xây dựng sự
phát triển, trước hết là phát triển bản thân, sau đó là phát triển xã hội.
Giải pháp đó là xây dựng lòng tự tin
(self-esteem) để đánh giá đúng chính mình và hoán cải bản thân ngõ hầu chúng ta
biết xử kỷ tiếp vật hoặc đối nhân xử thế như một người tự tin vì người tự tin
có tính cách vững vàng, bình đẳng, suy nghĩ chín chắn để hóa giải mọi khó khăn,
đồng thời nhạy cảm với người khác, sống lạc quan và yêu thương mọi người.
Bài sau đây trích từ tác phẩm Haeling Relationships một cuốn sách của
tiến sĩ tâm lý Len Kofler, giám đốc Học Viện Tâm Lý Thánh Anselme Hoa kỳ, viết
riêng cho các Ki-tô hữu. Chắc chắc bài viết này sẽ giúp cho các Ki-tô hữu tập
luyện được lòng tự tin. Nó bắt đầu với việc chúng ta phải biết chính mình để biết
Chúa hơn và ngược lại, từ đó yêu mến Ngài nhiều hơn như lời thánh Augustino cầu
nguyện cũng giống như câu nói của cổ nhân Vô
tri bất mộ với chữ tri gồm cả tri kỷ tri bỉ và tri Thiên (biết mình, biết
người và biết Chúa).
TƯƠNG QUAN VỚI CHÍNH MÌNH
(Phương pháp tập luyện lòng tự tin)
Len Kofler
1.
Đánh giá thấp bản thân
(...) Tương quan quan trọng nhất là
tương quan mà chúng ta có với chính chúng ta. Điều này tác động đến toàn bộ tiến
trình tư vấn và
mọi sự việc chúng ta làm như nhiều người khác. Những bài thuyết trình mà tôi
nói về tương quan đều có trọng tâm là tương quan với chính mình. Tương quan đối
với bản ngã áp dụng cho cả khách hàng và người tư vấn. Cách thức người tư vấn
tương quan với chính mình và cách thức khách hàng tương quan với chính họ sẽ ảnh
hưởng đến việc thiết lập sự liên kết làm việc. Một tư vấn viên hay một khách
hàng có lòng tự trọng thấp sẽ mang đến nhiều điều bấp bênh cho tương quan trị
liệu. Một vài vấn đề về lòng tự trọng thấp có liên quan đến sự chuyển dịch. Cha
mẹ có thể đã «đè nén» con cái và không thừa nhận chúng đến nỗi chúng quen cảm
nhận chúng vô giá trị, không phù hợp. Khi những đứa trẻ này lớn lên và khi
chúng làm việc với những khuôn mặt quyền thế, chúng có thể cảm nghiệm chúng
không thích nghi. Dù sự đánh giá thấp bản thân xuất hiện nơi nào, nó cũng đòi hỏi
công việc bù đắp. Tương quan người với người khó mà thiết lập hoặc vì khách
hàng cảm thấy tự ti với người tư vấn, hoặc ngược lại. Đánh giá thấp bản thân
cũng có thể cản trở tương quan với Thiên Chúa. «Thiên Chúa không thể yêu thương
tôi khi biết tôi là ai.» Đôi khi thật có ích khi lặp lại câu này: «Thiên Chúa
hoàn toàn biết tôi, và yêu chính con người tôi.»
Tương quan quan trọng nhất là tương
quan với chính mình.
Điều này ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống
chúng ta.
Nó cũng
có thể ảnh hưởng tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
2.
Cải thiện việc đánh giá bản thân