ngày tháng năm

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Toàn Văn Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

"Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình" là chủ đề của sứ điệp của Đức Thánh Cha Benedict XVI gửi Ngày Hoà Bình Thế Giới lần thứ 46 sẽ được tổ chức vào ngày 1 tháng 1 năm 2013 tới đây. Sứ điệp lần này gồm 7 số, sau đây chúng tôi xin gửi đến quý vị toàn văn sứ điệp này: 

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu. 

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những người Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng[1], khi chúng ta công bố ơn cứu độ của Đức Kitô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại. 

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn diện của con người. 

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người. 

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗi người, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy. Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của Chúa. 

Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: "Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9). 

Năm mới tâm linh

Năm hết, Tết đến, ai cũng lo “đổi mới” bề ngoài, vậy cũng cần lắm đối với mọi người về việc “canh tân” đời sống tâm linh trong năm mới. Hãy tập thói quen canh tân đời sống tâm linh, và hãy dạy trẻ em đổi mới tâm hồn ngay từ tuổi nhỏ. 

Một năm mới bắt đầu, một khởi sự mới cũng bắt đầu. Do đó, đừng chỉ đặt ra các quyết định bình thường như giảm cân, bỏ hút thuốc, bớt say xỉn, bớt lải nhải, bớt độc đoán, bớt chuyên quyền, bớt ích kỷ, cố gắng ngoan ngoãn, cố gắng học tập,... Cũng đừng đặt ra các mục đích quá lớn hoặc xa vời, mà hãy đặt ra các mục đích đơn giản và thiết yếu, nhất là cố gắng cải thiện mối quan hệ với Thiên Chúa. Đây là vài cách khả thi:

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Lễ Các Thánh Anh Hài

Hêrôđê "Ðại Ðế", là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi.

Phúc Âm theo Thánh Mátthêu 2:1-18 kể cho chúng ta câu chuyện sau: Hêrôđê "thật bối rối" khi các nhà chiêm tinh đến từ đông phương hỏi về "vị vua mới sinh của người Do Thái," mà họ đã thấy ngôi sao của người. Và các vị chiêm tinh được cho biết trong Sách Thánh Do Thái có đề cập đến Bêlem, là nơi Ðấng Cứu Tinh sẽ chào đời. Một cách xảo quyệt, Hêrôđê dặn họ là hãy báo cho ông biết sau khi tìm thấy vị vua ấy để ông cũng "đến thần phục." Các nhà chiêm tinh đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu, họ dâng Ngài các lễ vật, và được thiên thần báo mộng về ý định thâm độc của Hêrôđê và khuyên họ hãy thay đổi lộ trình trên đường về. Sau đó Thánh Gia trốn sang Ai Cập.

Hêrôđê vô cùng tức giận và "ra lệnh tàn sát tất cả các con trai từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và vùng phụ cận." Vì Bêlem là một thành phố nhỏ, số trẻ bị giết có lẽ khoảng 20 hay 25. Sự kinh hoàng của việc thảm sát và sự tuyệt vọng của các cha mẹ đã khiến Thánh Mátthêu trích dẫn lời tiên tri Giêrêmia: "Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Raken khóc thương con mình..." (Mt 2:18). Bà Raken là vợ của ông Giacóp. Bà than khóc ở Rama là nơi người Do Thái bị tập trung lại sau khi bị người Assyria bắt làm tù binh.

Lời Bàn

Hai mươi trẻ em thì chỉ là số ít, so với sự diệt chủng và sự phá thai trong thời đại chúng ta. Nhưng dù đó chỉ là một người, chúng ta cũng phải nhớ đến tạo vật quý trọng nhất mà Thiên Chúa đã dựng trên mặt đất, đó là con người, được tiền định để sống đời đời và được chúc phúc nhờ sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu.

Lời Trích

"Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự sống ngay cả trước khi chúng con có thể hiểu biết" (Lời Nguyện Trên Lễ Vật, Lễ Các Thánh Anh Hài).

Nguồn nguoitinhuu

Tình Bất Diệt

Ngay từ khi lọt lòng mẹ, bác sĩ đã quả quyết rằng Kimberly Marshall không thể nào sống được. Bé bị chứng Cytic Fibrosis, một chứng bịnh bẩm sinh và di truyền mà người ta thường gọi tắt là CF. Trong sự tuyệt vọng để cứu sống con mình, mẹ của Kim đã mang bé về nhà, mỗi ngày ba bốn giờ, bà và bà ngoại của Kim đã thay phiên nhau vỗ nhẹ trên lưng và ngực của bé, với hy vọng mong manh là có thể làm tan đi những cục đờm đang đóng nghẹt trong phổi của bé. Một bác sĩ chuyên khoa về CF cho biết, diệt trừ những cục đờm bằng cách này, chẳng khác gì dùng chổi để quét mật ong trên sàn nhà. 

Ngoài sự dự liệu của mọi người, bé Kimberly đã thoát được lưỡi hái của tử thần. Bé lớn lên và vào trường tiểu học. Kim còn học vũ ballet và gia nhập đội soccer của trường. "Kìa nhìn xem công chúa của tôi" mẹ của Kim thường hãnh diện nói như vậy, mổi khi bà đứng bên lề sân cỏ để xem Kim đá bóng. 

Bà vẫn mơ ước là Kim sẽ lớn lên bình thường nhưng những đứa trẻ bình thường khác. Bà mơ ước rằng Kim sẽ lên trung học, sẽ tham dự buổi khiêu vũ cuối năm lớp 12, và một buổi tối sẽ ngẩng mặt lên để đón nhận nụ hôn đầu của một chàng thanh niên đẹp trai. 

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Một thời để Người Kitô hữu nhập thế

Bài của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI viết cho báo Financial Times (Thời báo Kinh tế Anh) ra ngày 20.12.2012

Giáng sinh là một thời gian vui vẻ hân hoan và một dịp để suy tư sâu sắc, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI nói:

“Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” là câu trả lời của Đức Giêsu khi được hỏi về việc đóng thuế. Dĩ nhiên, những kẻ hỏi Người đang gài bẫy Người. Họ muốn buộc Người phải đứng về phía nào trong cuộc tranh luận chính trị nảy lửa về việc cai trị của Rôma tại đất nước Israel. Cái bẫy nằm ở chỗ này: Nếu Đức Giêsu quả thực là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu, thì Người chắc chắn sẽ chống lại những kẻ thống trị Rôma. Cho nên câu hỏi đã được suy tính nhằm làm cho Đức Giêsu phải lộ diện như một mối đe dọa đối với chế độ hoặc như một kẻ lừa đảo. 

Câu trả lời của Đức Giêsu khéo léo chuyển cuộc tranh luận lên một bình diện cao hơn, nhẹ nhàng khuyến cáo đừng có chính trị hóa tôn giáo lẫn thần thánh hóa quyền lực nhất thời, để mà mê mải tìm kiếm của cải. Những kẻ đang nghe Người nói cần được nhắc nhở rằng Đấng Mêsia không phải là Xêda, và Xêda không phải là Thiên Chúa. Vương quốc mà Đức Giêsu đã đến để thiết lập thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn cao hơn. Như Người đã bảo Phongxiô Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”.

Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội là gì ?

Tại sao Giáo Hội có một Học Thuyết Xã Hội 

Từ khi Đức Gioan Phaolô II lên ngôi Giáo Hoàng, Giáo Hội nói nhiều đến học thuyết xã hội của mình. Điều này có thể cảm nhận như một mâu thuẫn: Giáo Hội vốn có sứ mạng trên lãnh vực thiêng liêng và siêu nhiên, lại quan tâm sát sao tới đời sống xã hội. Thực chất, Giáo Hội tìm cách soi sáng cách hành xử của chúng ta trong xã hội sao cho cuộc sống của chúng ta phù hợp trên mọi mặt với Tin Mừng. 

Từ lúc ĐGH Gioan Phaolô II lên ngôi, chúng ta thường được nghe nói về Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội (GHXHGH), nhưng đó chính xác là gì? Tại sao Giáo Hội vốn có một sứ mạng thiêng liêng, lại quan tâm đến đời sống và tổ chức của xã hội? GHXHGH có ảnh hưởng như thế nào trong cuộc đời của mỗi người Kitô giáo? 

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Sửa lại con đường của Chúa

Chúa Nhật II MV-C 

Lời mở 

Các bài Kinh Thánh hôm nay đều nhắc đến việc sửa lại con đường cho Chúa. Tiên tri Baruch trong bài đọc I đã loan báo rằng: “Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng từ lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu để Israel tiến bước an toàn” (Br 5,1-9). Còn tiên tri Gioan Tẩy Giả cũng lặp lại lời loan báo của tiên tri Isaia cho tất cả những ai đang mong chờ Chúa đến: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,4.6). 

Trong ít phút này, chúng ta cùng tìm hiểu con đường của Chúa được hình thành trong con người ta như thế nào và phải làm gì để sửa con đường đó cho ngay thẳng? 

Tại sao Chúa Giêsu đến thế gian ?

Có lẽ bạn cho đó là một câu hỏi “ngớ ngẩn”, vì ai là Kitô hữu cũng biết Ngài đến cứu độ nhân loại. Đúng vậy, nhưng vẫn có điều khác... Chúng ta đã đón lễ Giáng Sinh nhiều lần, nhưng có thể chúng ta chưa thắc mắc. Mời bạn khám phá điều mới lạ nhân dịp kính mừng lễ Giáng Sinh! 

Thánh sử Gioan kể: Ông Philatô hỏi: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Ông Philatô nói với Người: “Sự thật là gì?” (Ga 18:37-38). 

Tại sao Chúa Giêsu đến thế gian? 

Hằng năm, lễ Giáng Sinh đều đặt ra một câu hỏi: Tại sao Chúa Giêsu đến thế gian? Hoặc: Ý nghĩa của Đức Giêsu Kitô là gì? Oặc mang tính cá nhân hơn: Người đàn ông này nên tạo sự khác biệt nào trong đời sống của tôi? Trong hôn nhân của tôi, trong đời tu của tôi, trong công việc của tôi, trong sự nhàn rỗi của tôi, trong suy nghĩ của tôi, trong cảm xúc của tôi, trong mọi sinh hoạt của tôi,…? 

Tưởng Niệm Bác sĩ Richard Teo (1972-2012)

Dưới đây là bản ghi lại cuộc nói chuyện của Bác sĩ Richard Teo, một triệu phú 40 tuổi và bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4 đến chia sẻ với khóa nha D1 về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh vừa qua đời cách đây vài ngày vào 18/10/2012. 

Chào tất cả các em. Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó nghe. Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Tôi sẽ chia sẻ vài suy nghĩ về cuộc sống của mình và rất hài lòng khi được các giáo sư mời đến đây. Hy vọng sẽ giúp các em cách suy nghĩ khi bắt đầu theo ngành để trở thành nha sĩ giải phẫu cũng như suy nghĩ về những việc chung quanh. 

Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ. 

Không những chỉ cần đi học ở trường giỏi, tôi cần phải thành công trong mọi lãnh vực - từ các hoạt động tập thể đến chạy đua, mọi điều. Tôi cần phải đoạt được cúp, phải thành công, phải được giải, giải quốc gia, mọi thứ. Tôi rất ganh đua. Tôi vào trường y và trở thành bác sĩ. Chắc một số em biết rằng trong ngành y, giải phẫu mắt là một trong những chuyên khoa khó vào nhất. Tôi cũng vào được và được học bổng nghiên cứu của NUS phát triển tia laser để chữa bịnh mắt.

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Xin miễn thực hiện Công ích

Kính gửi: Quan Công ích
V/v: Xin miễn làm công ích

Chúng tôi đứng tên dưới đây là những người: 

- Tâm thần phân liệt; hôn mê sâu sống đời thực vật cỏ cây; trẻ bại não nặng; bệnh lú lẫn tuổi già; người hấp hối... 
- Trẻ sơ sanh cho tới thiếu niên còn ngây thơ đơn sơ hồn nhiên chưa biết sự đời. 
- Bị tù rục xương đã mất quyền công dân; một số chuẩn bị chịu án tử hình... 

Xét rằng: 

“Công ích có liên quan đến mọi thành phần trong xã hội, không ai được miễn cộng tác vào việc thực hiện và phát huy công ích, tùy theo khả năng của mỗi người" (Tóm lược HTXHCG, 167). 

Xét rằng: 

Óc chúng tôi đã tê liệt hư hoại lệch chuẩn, tay chân thì không còn nhúc nhích, thân xác im lìm như cây chuối nằm sóng soài mặt đất, não bộ đầy ảo ảnh - ảo giác - ảo thính, đời cạn và cạn đời! 

Xét rằng: 

Chúng con còn bé lắm, không biết thế giới người lớn có gì hay... 

Xét rằng 

Chúng tôi sắp chịu án tử, “còn gì đâu nữa mà khóc với cười”! 

Nay đề nghị: 

Xin chuẩn chước cho chúng tôi được miễn thực hiện nghĩa vụ công ích; và 

Tiếp tục cho chúng tôi hưởng những công ích sau từ quí vị: quyền được tiếp cận và hưởng ước uống, thực phẩm, nhà ở, chăm sóc sức khỏe cơ bản (chỉ dám xin những DỊCH VỤ THIẾT YẾU

Không dám đòi hỏi các loại hình công ích sau đây: Tự do truyền đạt và bày tỏ quan điểm; tự do tôn giáo; tiếp cận văn hóa; đi lại; giáo dục; bầu cử; được luật sư biện hộ; được thăm thú các môi trường sinh thái sạch đẹp, được thăm các miền nhân gian đang hưởng thái bình thịnh trị. 

Xin Chúa là đấng Sự Thiện Tối Thượng, đấng Siêu Việt, đấng Yêu thương, đấng Quan phòng, đấng Công ích đích thực và tối cao, luôn đổ tràn ân huệ xuống xã hội loài người. 

Minh Đăng

Tính hưởng thụ

Việc con người sinh ra ở tính thiện hay tính ác đã đưa các triết gia phương Đông đến hai thái cực. Mạnh Tử thì nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuân Tử bảo ngược lại: “Nhân chi sơ tính bản ác”. Phương Tây họ không cực đoan như vậy. Họ cho rằng một đứa bé sơ sinh chỉ là một thực thể ẩn chứa những gì liên quan, ảnh hưởng đến con người sau này, như là thể chất, trí não, nhân cách, năng khiếu bẩm sinh v.v… mà thôi. 

Ở đây, tôi chỉ xin bàn một khía cạnh nhỏ của thiện và ác, đó là tính hưởng thụ: “Nhân chi sơ tính hưởng thụ”. Hưởng thụ như thế nào, hưởng thụ cái gì và giới hạn đến đâu? 

Cứ coi con người sinh ra vốn không thiện, không ác thì hãy xem “tính hưởng thụ” là chắc có. Tôi tạm gọi cái bào thai là “hắn”, vì đằng nào hắn cũng sinh ra để mang nặng kiếp người. Khi hắn ở trong bụng mẹ, quãng sáu bảy tháng gì đó hắn đã biết lựa thế nằm cho êm, đó là hưởng thụ, để đạt được điều đó hắn quẫy đạp mẹ hắn. Ta xem hành động đó là thiện hay ác? Rõ ràng tính hưởng thụ còn có trước lúc sinh ra! 

Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

Ước gì...

Khi tôi còn nhỏ, cuộc sống gia đình tôi cũng như bao gia đình khác rất khó khăn. Mẹ tôi phải tảo tần buôn bán ngoài chợ kiếm sống qua ngày. Tan trường, tôi thường ghé qua chợ để mẹ mình sai bảo những việc nhỏ nhặt, tôi thấy chị bán hàng kế bên đang ăn hủ tiếu – chỉ nhìn thoáng qua thôi vì người lớn dạy: không được phép nhìn người khác ăn uống - lòng nhủ thầm: ước gì mình được ăn hủ tiếu. Vậy mà mẹ tôi đã đọc được tư tưởng ấy. Thế là tôi được hưởng một tô không thịt, thật là hạnh phúc. 

Một hôm nọ, tôi và anh trai kế của mình chơi với các bạn lối xóm. Chúng tôi cãi vã và đánh lộn với nhau. Chị tôi ra chợ méc mẹ. Như thường nhật tôi cũng ghé chợ vừa cất tiếng thưa: “Thưa mẹ, con đi học mới về”

- Mẹ tiếp luôn: “Hai đứa tụi con về nhà tối nay mẹ sẽ 'tính sổ'”. 
- Tôi sợ quá và nói với anh mình: “Ước gì từ giờ đến chiều mẹ mình quên 'tính sổ' tụi mình”

Nhưng người lớn không quên. Cho nên hai anh em đều “được ăn” roi nhớ đời. 

Lớn lên, các anh chị và tôi phải đi làm. Công việc và nghề nghiệp của các anh chị không thuộc sở thích của mình. 

- Tôi nói với mẹ: “Ước gì con làm được nghề mà con yêu thích”
- Mẹ khuyên: “Con cứ cố gắng làm tốt công việc hiện tại trước đi vì bây giờ chưa có khả năng, có khả năng con sẽ làm được”. 

Và điều đó đã xảy ra. 

Thời gian cứ thế trôi qua. Bản thân tự bươn chải, đối phó, vật lộn với cuộc sống. Công việc, đồng tiền, niềm vui riêng và chốn an phận cho bản thân đã làm cho tôi quên bao điều giáo huấn tốt lành của cha mẹ, thầy cô và những người xung quanh. Tôi phải đi dự lễ mỗi Chúa nhật là do sợ phạm tội trọng trong Mười Điều Răn. 

Đến lúc tôi tự hỏi: Tình yêu của Thiên Chúa, của gia đình, của những người xung quanh dành cho tôi đâu? Tôi đã làm được gì để nuôi dưỡng lương tâm của mình mà Đấng tạo dựng đã đặt để trong tôi? Tôi có đến với người khác trong yêu thương chưa? Có phải thời này như Thánh Phaolô nói: “… Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ nghoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường”. Hàng trăm câu hỏi khác chất vấn trong tôi. Vậy tôi phải hành động, hòa nhập như thế nào trong xã hội ngày nay. 

Và tôi đã đi tìm để mình bước ra, bước ra từng bước một, ra khỏi não trạng sai lệch mà tôi đã đi, bằng cách đến với quyển Tóm lược HTXHCG. Giáo Hội cống hiến Học thuyết Xã hội của mình cho nhân loại thời nay và mai sau để mọi người cùng nhau gánh lấy trách nhiệm, thăng tiến con người toàn diện và liên đới. 

Ước gì Học thuyết Xã hội của Giáo hội được phổ biến cho mọi người ở mọi nơi, hầu giải thích các thực trạng và tìm ra hướng hành động thích hợp, để con người có thể tiếp cận các vấn đề xã hội một cách tích cực nhất. Nhất là Xã Hội Việt Nam ngày nay. Mong ước lắm thay. 

Thảo Li

Giáng Sinh An Lành

Ảnh minh họa
Một phép màu đã xảy ra ngay đêm Giáng sinh giữa hai chị em ruột đã không nói chuyện với nhau suốt 30 năm. Sự tha thứ đem lại bình an tâm hồn, như lời thiên thần hát trên không trung: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. 

Vợ chồng chị Ân làm bữa tiệc giáng sinh cho những ông bà già neo đơn ở khu xóm, trong trong đó có chị em bà Liên và bà Hiền. Họ đã ngoài 70, cùng sống trong một căn nhà nhỏ, nhưng không ai nói với ai suốt 30 năm dù họ vẫn nói chuyện với người khác. Không khí căng thẳng, ngột ngạt… Nguyên nhân là câu chuyện dài liên quan người mẹ và chiếc trâm cài tóc. Tại sao họ không sống riêng? Đó là vấn đề. Không ai muốn mình là người dọn đi! 

Chị Ân quyết tâm đến thăm họ mỗi tháng 1 lần và đưa họ ra ngoài 2 hoặc 3 lần mỗi năm, dĩ nhiên kể cả lễ giáng sinh. Nhưng ra ngoài đối với bà Hiền như một cơn ác mộng, bà chỉ thích mặc áo trắng, không chịu mặc màu khác. Lại là vấn đề khi chị Ân mua cho bà chiếc áo màu hồng. 

Bà Liên lại là vấn đề khác. Bà rất khó ăn, món gì cũng không vừa lòng bà. Tính bà cương quyết, khó lay chuyển, có điều gì đó khác thường giữa hai bà! 

Sau khi tham dự lễ nửa đêm, hai bà vào nhà chị Ân theo lời mời của vợ chồng chị. Bà Hiền đến bên bà Liên vừa cười vừa nói: “Chúc mừng giáng sinh. Chị nên cởi mở với mọi người”. Ai cũng ngạc nhiên, không biết điều gì xảy ra, vì bà Liên quay đi như thể bà từ chối vậy. Nhưng đôi mắt bà đầy nước… 

Rồi bà đứng lên như không có gì xảy ra, như không là ngày quan trọng đối với cả hai trong suốt 30 năm qua vậy. Bà nói: “Này, dì Hiền lại đây, dì thật là ngớ ngẩn. Tôi không hẹp hòi gì đâu. Nào, đến đây với chị”. Từ đó, họ luôn nói chuyện với nhau. 

Thật đúng là phép mầu lễ giáng sinh. Mọi người vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Không ai muốn tìm hiểu bí ẩn 30 năm qua nữa, chỉ biết là điều kỳ lạ đã xảy ra. Vậy thôi! Hai bà đã tìm lại được cả tình chị em và tình người. 

Bây giờ hai bà không còn, nhưng chị Ân vẫn nhớ mãi câu chuyện về lòng tha thứ của họ… 

TRẦM THIÊN THU

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

PHÙ VÂN PHÚ

(Sách Giảng Viên)

Càn khôn luân chuyển;
Vũ trụ tuần hoàn.
Nhất sinh bào ảnh;
Vạn thế phù vân!

Nhìn nước chảy một chiều cao xuống thấp;
Ngắm gió xoay tứ hướng bắc rồi nam.
Điều đang có rồi ra sẽ có;
Chuyện đã làm tất cũng phải làm.
Khổ đau lắm vì chưng đa hiểu biết;
Phiền muộn nhiều bởi lẽ lắm khôn ngoan.

Kìa ai:
Thâu gom ngà ngọc;
Tích cóp bạc vàng.
Nhất hô thiên ứng;
Duy lệnh bá cung.

Gác tía lầu son, đất đai cuồng chân ngựa chạy, dinh kho chục đội quân canh, Ngoài ngõ lao xao kẻ đưa người đón;
Nhà cao cửa rộng, đồng ruộng thẳng cánh cò bay, chuồng trại trăm đàn gia súc, trong nhà nườm nượp đầy tớ gia nhân.
Sáo lộng tiêu hòa, rộn rã sân rồng cổng phượng;
Ăn sung mặc sướng, nghỉ ngơi gối gấm màn loan.

Hay chăng?
Ảo ảnh ảo ảnh y ảo ảnh!
Phù vân phù vân tất phù vân!
Một thời sinh tử - khóc cười – yêu ghét;
Mấy cuộc gieo trồng - hòa chiến - lượm quăng?

Lợi lộc chứ kẻ bo bo giữ của?
Vẻ vang gì người chằm chặp ôm danh?
Đứa khờ khạo ngây ngô, sự nhung nhớ đâu hằn dấu tích;
Người tài cao trí thượng, điều lãng quên mất vết thời gian.

Chẳng giữ được lại ra công tốn sức;
Không lưu tồn sao tổn trí hao tâm?
Dưới vầng dương, là bóng ngựa qua khe sớm biến;
Trên mặt đất, chỉ dã tràng xe cát mau tan.

Hăm he thả mồi bắt bóng;
Công cốc giật quýt dành cam.
Biển bốc hơi thì bay lên tụ hợp;
Mây đầy nước lại đổ xuống tràn lan.

Vậy nên:
Trừ khử đớn đau ngoài xác;
Đẩy lui phiền muộn nội tâm.
Chuỗi tuổi già đằng đẵng dài lâu, đừng não nề khi đã xế;
Đời thanh trẻ vụt qua thoáng chốc, Cứ vui hưởng lúc còn xuân.
Công trình bởi Chúa tạo, chẳng biết lúc nào, vậy sáng sáng cần đi gieo chăm chỉ;
Thành quả do Trời ban, nào hay thời điểm, nên chiều chiều cứ đứng cấy chuyên cần.

Lục lọi chút bạc tiền, đôi ba người hãy giúp;
Sớt chia niêu cơm bánh, vài bốn kẻ cùng ăn.
Chớ chờ lúc cuối cùng gõ cửa;
Đừng đợi khi kết thúc sang thăm.
Còn chi nữa lúc mặt trời mờ ánh sáng;
Có gì chăng khi tinh tú lặn tối tăm.

Vì ngày ấy:
Thiếu nữ tinh anh, giờ đã run tay mờ mắt;
Chàng trai vạm vỡ, nay thành khụy gối sụm chân.
Đường sinh bỗng nhiên khép lối;
Cửa tử thoáng chốc mở toang.
Tất cả đâu tồn tại;
Mọi điều sẽ lặng câm.
Ảo ảnh - ảo ảnh!
Phù vân – phù vân!
………..
Lạy chúa Trời! Xin đổ mưa thiêng quyền phép!
Tâu Thượng đế! Hãy ban gió thánh chí nhân…

Bùi Nghiệp



Tiếng chim gù gù

Khi bắt đầu chú ý đến tiếng “gù gù” từ lầu nhà đối diện thì cũng là lúc tôi nhận thấy mình đã quen với loại tiếng chim gáy đó từ lâu rồi, dẫu không xác định được thời điểm một cách rõ rệt. Cứ mỗi sớm, khi tôi ăn sáng, tiếng “gù gù” lại đều đặn vang lên như chiếc đồng hồ mang tính sinh học. Chiều về, chuẩn bị tắm rửa, tôi lại nghe điệp khúc “gù gù” ấy, tuy đơn điệu mà không gây nhàm chán. 

Tôi bắt đầu để ý nhiều hơn. Một đứa trẻ độ tuổi lớp Hai luôn tỏ vẻ chăm chút con chim. Hình như không có ai để nói chuyện nên nó thường nói chuyện với con chim như một người bạn thân. Ngôn ngữ nó đơn sơ và chân tình. Mà cũng chưa hẳn vậy, bởi lẽ nó là con nhà giàu, hẳn là nó có điều kiện thuận lợi để đi chơi đây đó kia mà? Hay là nó thương “kiếp chim trong lồng”? Quả đúng vậy. Một lần tôi nghe nó nói: “Chim cu nè, Bi muốn thả bạn ra chơi với Bi lắm, nhưng Bi sợ chim cu bay mất. Thôi ráng ở trong lồng vậy nghe!”

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

TẬP SAN SỐ 4


CHÚNG TA HỌC KITÔ HỌC - Bài 4


Đấng được mong đợi 


Chúng ta đang ở năm 2012, nếu chúng ta nhìn suốt dòng lịch sử hình thành nên con người[1]

- Với những khám phá của khoa Cổ Sinh vật học và Vũ trụ học, người ta biết được vũ trụ vạn vật thoát thai từ vụ nổ “big bang” cách nay 15 tỷ năm, với hàng trăm ngàn thiên hà hình thành, trong đó có thiên hà của chúng ta với khoảng 400 triệu ngôi sao giống như mặt trời xuất hiện cách ta khoảng 12 tỷ năm. Trái đất là một hành tinh tách ra từ mặt trời cách đây 8 tỷ năm. Sau đó trái đất, với những chất khí Oxy, Hydro, Nitơ… tổng hợp thành những chất càng ngày càng phức tạp. Cách đây 1 tỷ năm, tế bào sống đầu tiên xuất hiện. Tế bào ấy càng ngày càng phân hoá phức tạp thành đơn bào, đa bào, các sinh vật hạ đẳng, các loài có xương sống; rồi các động vật thượng đẳng. Sau đó xuất hiện người vượn Pliopitec cách đây 37 triệu năm; Ramapitec, 12 triệu năm; Ostralopitec, 3 triệu năm; con người đứng thẳng, 1 triệu năm; con người tiền sử vùng sông Solô, 250.000 năm; người Neoderthan, 150.000 năm; người Cromagnon biết suy tư “Homo Sapiens” cách 40.000 năm. 
- Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn con người riêng biệt trong dòng tiến hoá của mình, con người sẽ không bao giờ tìm ra được nguồn gốc, giá trị và ý nghĩa sự hiện hữu của mình giống như khi ta phân tích bộ phận của một cây viết hay 1 cái đồng hồ. Nhờ khả năng biết suy tư của tinh thần, con người vượt ra khỏi vòng tiến hoá để khám phá ra nguồn gốc của vạn vật và của chính mình. 
- Trong những dòng lịch sử suy tư của con người, người ta đã định nghĩa con người là “con vật biết suy tư” (animal rationabile), coi con người là sự kết hợp giữa thể xác và tinh thần. Quan niệm duy tâm cho bản chất con người là tinh thần, là l‎ý tính. Quan niệm duy vật cho bản chất con người là do vật chất biến hoá ngẫu nhiên mà thành. Quan niệm siêu hình chỉ nhìn thấy con người riêng rẽ về mặt sinh học hay tâm l‎ý (x. Hội đồng Quốc gia, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995). 

Câu hỏi đặt ra cho con người suy tư: Tôi bắt đầu từ đâu? Tương lai của tôi sẽ như thế nào, nói cách khác còn gì nữa sau cuộc đời này? Đó là những vấn nạn căn bản luôn xuất hiện trong cuộc đời con người.

Nhận và Cho

Cuộc đời là xã hội, là cộng đồng, nghĩa là không ai lại không phải ít nhiều nhờ vả nhau – dù trực tiếp hay gián tiếp. Không ai có thể sống như một ốc đảo, mà luôn có những mối quan hệ và những hệ lụy theo một quy luật tất yếu của cuộc sống. 

Trong quan hệ đó, mỗi người có một nhân sinh quan riêng nhưng luôn hợp thành một tổng thể cộng đồng. Như vậy, cần có tình đồng loại thực sự. Con người vốn dĩ yếu đuối nên rất cần sự cảm thông và tha thứ không ngừng. Sống chân thành và hài hòa với nhau là hạnh phúc được nhân đôi: Cho bạn và cho tôi. Mỗi người phải biết chia sẻ, không thể khư khư giữ “cái tôi” mãi. Nhưng, để được NHẬN thì phải biết CHO trước. Tất nhiên phải biết mở lòng ra như cuốn sách để người khác "đọc" mà cùng quan tâm lẫn nhau. 

Dĩ nhiên không ai trên đời có thể hiểu hết nhau – dù trong mối quan hệ nào. Có chăng là hiểu một đôi phần trong lĩnh vực và khía cạnh nào đó. Cố gắng hiểu người chứ đừng đòi người hiểu mình nhiều quá. Vả lại, ai cũng có “khoảng riêng” bất khả xâm phạm. Biết vậy để tự trọng và tôn trọng nhau đúng mức. P. Gerandy (Mỹ) phân tích: “Chỉ cần hơi giống nhau là có thể hiểu nhau, nhưng cần phải hơi khác nhau để có thể yêu nhau”. 

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ KHI GIỠN MẶT VỚI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Đến khi người dân cùng kiệt vì thiếu đói thì nhà nước mới hiểu ra rằng cần phải quay về với kinh tế thị trường và sự thay đổi nầy đã giúp cho người dân được cởi trói, hồ hởi bung ra làm ăn. Bộ mặt đất nước từ đó thay đổi. 

Nhẽ ra phải nương theo đà đi lên ấy mà tiếp tục thay đổi và hoàn thiện để phù hợp với cơ chế mới thì nhà nước lại muốn quay lại cỡi lên để "định hướng" thị trường.

Nhưng kinh tế thị trường có quy luật vận hành riêng của nó. Để kiểm soát được nó cần phải có sự am hiểu và kinh nghiệm dày dạn qua hàng trăm năm sống chết trong nó, qua bao lần điêu đứng vì nó bởi khủng hoảng như Mỹ và các nước tiến tiến đã trải qua.

Page

Blogger Tips and TricksLatest Tips And TricksBlogger Tricks