Lm. Matthêu Nguyễn Khắc Hy, S.S.
Dẫn
nhập
Câu hỏi về tương quan giữa Thiên Chúa
và tự do của con người được đặt ra từ khi con người biết suy tư về Thiên Chúa.
Giáo lý Công giáo số 302 định nghĩa: "Sự
quan phòng của Thiên Chúa chính là những đường lối Người xếp đặt để đưa vạn vật
tới sự trọn hảo" và là "Thiên
Chúa gìn giữ và điều khiển tất cả những gì Người đã sáng tạo". Nếu sự
quan phòng là những quan tâm, lo lắng của Thiên Chúa với thụ tạo, thì câu hỏi đặt
ra là liệu Thiên Chúa có tiền định cho con người không? Con người có thật sự tự
do định đoạt số phận mình không? Hay Thiên Chúa đã tiền định mọi sự, và không
có gì con người làm mà xảy ra ngoài ý định (hay chương trình) của Thiên Chúa?[1]
Là người Việt Nam, chúng ta sống trong
môi trường ảnh hưởng nhiều bởi thuyết Luân Hồi và Nhân Quả (hay Nghiệp Quả) được
cắt nghĩa qua lăng kính nghiệp chướng của Phật giáo. Vì thế, nhiều người chúng
ta tin vào "số phận" hay "định mệnh" và cho rằng con người
không thể thay đổi số mạng mình. Nguyễn Du, trong phần kết truyện Kiều, đã than
thở về đời người con gái "hồng nhan bạc phận" này:
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người
có thân
Bắt phong trần phải
phong trần
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao.
Hay
Ðã mang lấy nghiệp vào
thân
Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Trong xã hội, người dân than thở:
"con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa!" không chỉ
nói lên hạn chế của xã hội mà còn bao hàm ý nghĩa số phận. Thường nghe nhất
trong dân gian là "dép giày còn có số, huống gì là con người." Nói
như thế, liệu con người sinh ra có số mạng không? Hay số phận mình có bị định
đoạt bởi Thiên Chúa (Ông Trời) không?
Kinh
Thánh với Ý Niệm Tiền Ðịnh
Kinh Thánh luôn trình bày cho chúng ta
hình ảnh Thiên Chúa là Ðấng Toàn Thức (biết hết mọi sự). Sách Daniel kể khi bà
Susanna bị vu oan tội ngoại tình, bà đã kêu lên: "Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Ðấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết
mọi sự trước khi chúng xảy ra" (Dan 13:42). Thánh Phaolô, trong thư gởi
tín hữu Roma, nói: "Vì những ai Người
đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con
của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai
Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì
Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính,
thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang" (Rom 8:29-30). Và "Vậy Thiên Chúa thương xót ai là tuỳ ý
Người, và làm cho ai ra cứng cổ cũng tuỳ ý Người" (Rom 9:18).
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói đừng quá
lo lắng về việc ăn mặc, mà trước hết lo tìm kiếm nước Thiên Chúa, vì chim trên
trời, hoa ngoài đồng được Thiên Chúa lo cho ăn no mặc đẹp, thì con người còn
quý giá hơn chúng nhiều lần (x Mt 6:25-34, Lk 12:22-31). Và khi gặp khó khăn về
đức tin như bị giam cầm, bắt bớ... thì cũng đừng lo lắng vì "dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng
không bị mất đâu" (Lk 21:18).
Những
Kitô Hữu Tin Thuyết Tiền Ðịnh
Từ thế kỷ thứ hai, Celsus ở Alexandria
đã viết những tác phẩm chống lại Kitô giáo trong đó ông ta nêu lên câu chuyện
Giuđa[2].
Trong bữa ăn Cuối Cùng, Chúa Giêsu nói: "Ðã
hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp
Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mk 14:21). Celsus liên kết câu
này với những đoạn trong Cựu Ước nói đến việc Thiên Chúa làm cho Pharaô và dân
Ai Cập cứng lòng: "Ðức Chúa nói với
Môsê: "Ta sẽ làm cho nó (Pharaô) cứng lòng và nó sẽ không thả cho dân
đi!" (Ex 4:21). Như vậy, theo Celsus, chính Thiên Chúa đã làm cho
Giuđa cứng lòng, nên Giuđa không là người chịu trách nhiệm về việc ông làm. Hơn
nữa, Celsus nói, nếu Thiên Chúa biết từ đầu rằng Ðức Giêsu sẽ phải chết trên
thánh giá, thì việc Giuđa làm không thể coi là phản bội, vì thật ra Giuđa không
thể giúp được gì cho Ðức Giêsu thoát khỏi cảnh chết đó. Ông đi đến kết luận mà
nhiều người chúng ta cũng thường hay nửa đùa nửa thật thắc mắc: Chúa Giêsu đã
biết trước Giuđa sẽ phản bội, nhưng không ngăn cản ông. Vì thế, nếu không có
ông, chưa chắc Chúa Giêsu đã chết bị đóng đinh như Ngài đã chịu. Như vậy có lẽ
Giuđa đã góp nhiều Công hơn là Tội trong việc thực hiện chương trình cứu chuộc
của Thiên Chúa! Và Celsus kết luận là Thiên Chúa đã tiền định mọi sự, và con người
hoàn toàn không có tự do[3].
Ðến thể kỷ 16, ông Jean Calvin
(1509-1564), cha đẻ của giáo phái có tên Calvinism, tin vào Thuyết Tiền Ðịnh
khi ông dựa vào thư thánh Phaolô gởi tín hữu Roma: "Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ
nên đồng hình đồng dạng với Con của Người... Những ai Thiên Chúa đã tiền định,
thì Người cũng kêu gọi... cho hưởng phúc vinh quang" (Rm 8:28-30).
Theo Calvin, những người đã được tiền định lên thiên đàng hay xuống hoả ngục
không thể thay đổi chung cuộc mình được. Nghĩa là, dù họ cố gắng bao nhiêu cũng
không thể thoát khỏi số phận Thiên Chúa đã định cho họ (ở thiên đàng hay hoả ngục)[4].
Cắt
nghĩa Theo Triết Học và Thần Học
Triết học đặt ra câu hỏi về tương quan
giữa Ý Muốn Tự Do của con người và ý niệm Thiên Chúa Tiền Ðịnh hay Biết Trước Mọi
Sự (Toàn Thức): nếu Thiên Chúa biết trước mọi sự, và không có gì con người làm
(dù tốt hay xấu) mà Thiên Chúa không biết. Vậy khi con người phạm tội, Thiên
Chúa biết trước mà không ngăn cản, Thiên Chúa có đồng trách nhiệm không?
Có rất nhiều cách giải thích theo triết
học và thần học cho câu hỏi này. Triết gia Công giáo Origen (184-254) đã cắt
nghĩa rằng chúng ta cần phân biệt Kiến Thức Biết Trước (foreknowledge) một sự
việc xảy ra khác với Nguyên Nhân làm cho sự việc ấy xảy ra. Nói cách khác, Biết
điều gì sẽ xảy ra và Làm cho nó xảy ra là hai điều khác nhau. Ví dụ, 2 chiếc xe
đang chạy rất nhanh ở hai đường sẽ giao nhau ở một ngã tư. Dù 2 tài xế không
nhìn thấy nhau (vì nhà cửa che khuất), nhưng người đứng trên lầu cao nhìn xuống
quan sát biết chắc rằng chỉ trong vài giây nữa, hai xe sẽ dụng nhau. Người quan
sát không là người gây tai nạn.
Câu hỏi đặt ra là liệu người nhìn thấy
và biết trước, có thông báo cho hai tài xế biết để tránh không? Hay nếu thông
báo (như có bảng Stop ở góc ngã tư) thì hai tài xế đó có thay đổi tốc độ để
tránh tai nạn không? Hai vẫn giữ tốc độ (vì có thể đang say xỉn nên bất chấp lời
cảnh báo) để gây tai nạn? Vậy người quan sát trên lầu cao là người biết tai nạn
sẽ xảy ra, nhưng không là người gây ra tai nạn.
Thứ hai, có người biện minh cho Thiên
Chúa và lý luận rằng: làm sao Thiên Chúa biết được tương lai, vì theo định
nghĩa, tương lai là những gì chưa có hay chưa xảy ra, nghĩa là chưa có hiện hữu.
Mà nếu chưa xảy ra (hay chưa hiện hữu), thì Thiên Chúa không thể biết được vì
Thiên Chúa không biết cái Không Có. Theo định nghĩa của triết học (chứ không phải
của thần học), thì Thiên Chúa biết mọi sự như trời đất có bao nhiêu cây, rừng
bao nhiêu lá, trời bao nhiêu sao... nhưng Thiên Chúa không thể biết cái Không
Có. Vậy việc chưa xảy ra thì Không Có trong hiện tại, vì thế Thiên Chúa không
biết được.
Lý luận này hợp về logic trong tranh
luận nhưng không thuyết phục được thần học khi thần học dạy rằng Thiên Chúa biết
mọi sự quá khứ, hiện tại và tương lai. Thần học Kitô giáo dạy rằng danh từ
tương lai ta dùng cho con người không đồng nghĩa với những gì ta áp dụng cho
Thiên Chúa. Là con người sinh ra trong thời gian và không gian, nên chúng ta có
hôm qua, hôm nay, ngày mai. Với Thiên Chúa thì không có thời gian, nên tất cả
chỉ là hiện tại. Nghĩa là, những gì ta cho là tương lai, thì đối với Thiên Chúa
cũng chỉ là hiện tại. Tất cả mọi khoảnh khắc ta sinh ra, lớn lên, già và chết xảy
ra trong thời gian, nhưng với Thiên Chúa chỉ là chớp nhoáng, nhất thời trong hiện
tại mà thôi[5].
Origen cắt nghĩa rằng: hai điều quan
trọng cần biết. Thứ nhất, dù Thiên Chúa có biết một người phạm tội trong tuơng
lai, Thiên Chúa không là Người làm cho anh ta phạm tội và vì thế cá nhân người
đó vẫn chịu trách nhiệm cho hành động mình. Thứ hai, không phải vì Thiên Chúa
biết đến mà sự việc xảy ra, nhưng vì sự việc xảy ra nên Thiên Chúa biết. Nghĩa
là, có người lý luận rằng: nếu Thiên Chúa biết là tuần tới, anh A sẽ phạm tội
(ăn cắp), mà bây giờ chưa là tuần tới. Vậy còn một tuần nữa. Khi ngày đó tới,
anh A không thể không phạm tội ăn cắp được. Vì Thiên Chúa đã biết trước anh A sẽ
ăn cắp, nên bắt buộc anh A phải phạm tội (ăn cắp) để Thiên Chúa không sai lầm.
Câu hỏi là nếu anh A sử dụng tự do của mình để không muốn phạm tội (ăn cắp) nữa
có được không? Nếu thay đổi được, thì Thiên Chúa biết trước không còn đúng nữa.
Còn nếu không thay đổi (nghiã là anh A sẽ phạm tội như Thiên Chúa đã thấy) thì
liệu chứng anh A có trách nhiệm gì không?
Origen giải thích rằng chúng ta đã sai
lầm khi cho rằng, nếu Thiên Chúa biết trước anh A sẽ phạm tội, vì thế anh A sẽ
phải phạm tội. Trái lại, Origen giải thích, vì chắc chắn anh A sẽ phạm tội
trong tuần tới (nói theo thời gian), nhưng vì Thiên Chúa không có thời gian,
nên Thiên Chúa thấy anh A phạm tội (là trong hiện tại của Thiên Chúa, nhưng là
tương lai của con người).
Vậy, không phải vì Thiên Chúa biết trước,
nên một việc phải xảy ra, mà vì một việc xảy ra, nên Thiên Chúa biết (và ta có
thể nói thêm là Thiên Chúa biết trước, vì Thiên Chúa thấy trong hiện tại những
gì sẽ xảy ra trong tương lai con người).
Lý luận Origen được các thánh Gioan
Kim Khẩu, Athanasius, Jerome và Agustine lặp lại trong những bài viết hay giảng
của mình[6].
Thánh
Thomas Aquinas và Lời Giải Thích
Thomas Aquinas, cũng cùng lý luận với
Augustine, cho rằng tất cả mọi tạo vật (vô hình hay hữu hình), được Thiên Chúa
biết đến không phải vì chúng có mặt (hiện hữu) rồi Ngài mới biết, mà ngược lại,
khi Thiên Chúa biết chúng, thì chúng có mặt[7]. Vì đối với Thiên Chúa, Biết cũng đồng nghĩa với
Tạo Dựng. Ví dụ, Thiên Chúa biết hoa hồng, thì có hoa hồng, Thiên Chúa biết mặt
trời thì có mặt trời... Vì thế, không có gì mà Thiên Chúa không biết. Ðiều
Thiên chúa không biết, có nghĩa là điều đó không có mà thôi.
Tuy nhiên, khác với Origen, Thomas
Aquinas phân biệt những gì Thiên Chúa tạo dựng trong thời gian, nghĩa là có cái
xảy ra trước, có cái xảy ra sau mà không nhất thiết cùng một lúc. Tư tưởng này
áp dụng cho con người hơn là Thiên Chúa, vì chỉ con người mới có thời gian để
phân biệt Trước và Sau. Trong chương 9 của Summa Theologiae, để trả lời câu hỏi:
liệu Thiên Chúa có biết những gì không có hiện hữu không? Thomas Aquinas khẳng
định là Thiên Chúa biết tất cả những gì có mặt (hiện hữu), và cả những cái có
tiềm năng hiện hữu (nghĩa là chưa có lúc này, nhưng có thể có trong tương lai).
Giải thích theo cách này, Thomas muốn nói là Thiên Chúa biết đến ngay cả những
cái không có, hay nói đúng hơn, Thiên Chúa không biết cái không có trong tương
lai, nhưng biết cái có thể xảy ra trong tương lai.
Vài
Giải Thích Ngày Nay
Triết lý ngày nay cho ta biết được lẫn
lộn giữa tiền định (ý tưởng cho là không có gì xảy ra mà không có nguyên nhân)
với số mạng (ý cho là con người không làm chủ được quyết định mình).
William L. Craig nói việc Thiên Chúa
biết trước tương lai ta không ảnh hướng trực tiếp đến hành động của ta, và
không làm thiệt hại tự do hay tính sáng tạo của ta[8]. Ông giải thích: hãy tưởng tượng cuộc đời anh
A như một cuốn phim (ý nói tất cả những gì xảy ra và đã xảy ra). Thay vì con
người chúng ta xem phim từng phần và thử đoán tương lai (khi anh còn trẻ, không
biết vài năm sau có đi học luật sư hay y khoa? Không biết sẽ yêu cô gái Bắc hay
gái Trung...), thì Thiên Chúa là người đã xem phim đó trước, và Ngài có thể trả
lời mọi chi tiết trong phim.
Ðiều quan trọng không phải là vì Ngài
coi phim trước nên anh A không thể thay đổi được, nhưng vì anh A là người có tự
do hành động và làm mọi quyết định trong đời mình, nên Thiên Chúa không gì hơn
chỉ là người xem phim trước, mà không thể (nhấn mạnh là không có thể) cầm tay bắt
anh ta phải thay đổi (như phải yêu cô này, hay phải làm việc này...). Craig kết
luận là Thiên Chúa biết trước mọi sự, kể cả những hành động đúng sai của con
người, nhưng Ngài biết vì con người quyết định làm, chứ không phải con người
làm mọi quyết định vì Ngài biết trước.
Là con người, ta có quyền Làm hay
Không Làm, nhưng mọi việc ta thay đổi, Thiên Chúa đều biết trước những thay đổi
đó. Vì thế, việc Thiên Chúa biết trước hành động con người và Ý Muốn Tự Do con
người hoàn toàn không chống đối hay loại bỏ nhau. Và sai lầm trong cắt nghiã
tín lý này không nằm trong nội dung, mà nằm trong cách giải thích cho rằng
"biết của Thiên Chúa" đồng nghĩa với "biết của con người."
Trả lời của nhóm theo Số Mạng
(Fatalism) cho rằng nếu Thiên Chúa biết trước tôi sẽ lên thiên đàng hay xuống
hoả ngục, vậy có phải là Tiền Ðịnh không? Và tôi có còn Tự Do chọn lựa nữa
không? Craig trả lời là hoàn toàn không phải tiền định. Nếu tiền định là Thiên
Chúa cầm tay và bắt ta lên thiên đàng hay xuống hoả ngục, thì chắc chắn không có.
Còn nếu tiền định theo lối là ta dùng tự do để làm mọi sự và Thiên Chúa biết
trước nhưng không ngăn cản, thì như thế không gọi là tiến định mà chỉ được xem
là người có kiến thức đi trước thời gian mà thôi. Craig kết luận, nếu dùng lý
luận này, ta có thể nói theo triết học là con người ta không thể thay đổi tương
lai, nhưng ta chắc chắn có thể giúp quyết định hình thành tương lai.
Giáo
Lý Của Giáo Hội
Giáo lý Công Giáo số 600 dạy: "Ðối với Thiên Chúa mọi thời điểm đều
là hiện tại. Khi tiền định một điều gì đó trong kế hoạch vĩnh cửu, Người cũng
"tiền định" tùy theo quyền của mỗi người tự do đáp trả ân sủng của
Người: "Ðúng vậy, Hêrôđê, Phongxiô Philatô, cùng với các dân ngoại và dân
chúng Israel đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Người là Ðức
Giê-su, Ðấng Người đã xức dầu. Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền
năng và sự khôn ngoan của Người đã định trước" (Cv 4, 27-28). Thiên Chúa cho phép xảy ra những hành vi do sự mù quáng
của họ (x. Mt 26, 54; Ga 18, 36;19, 11), để thực hiện ý định cứu độ của Người
(x. Cv 3, 17-18)”.
Giáo lý số 1037 dạy: "Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống
hỏa ngục. Ai tự ý lìa bỏ Thiên Chúa bằng một tội trọng và chai lì đến cùng, sẽ
phải xuống hỏa ngục. Trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng ngày của
tín hữu, Hội Thánh khẩn cầu Thiên Chúa từ bi, Ðấng "không muốn cho ai phải
diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải (2 Pr 3, 9)”.
Giáo lý Công Giáo dạy ta biết Thiên
Chúa quan phòng sắp xếp cho ta có mặt ở trên đời, ban cho ta nhiều ơn lành
trong đời sống để ta sống xứng đáng là con Thiên Chúa, và cho ta hồng ân biết
luôn can đảm để chọn điều tốt. Giáo lý không cắt nghĩa tương quan giữa Thiên
Chúa biết trước việc xảy ra trong đời ta, và tự do ta sử dụng, nhưng giáo lý bắt
ta phải tin rằng Thiên Chúa ban cho ta tự do để quyết định, ngay cả quyết định
phản bội Ngài.
Nói cách khác, giáo lý Công giáo đòi hỏi
ta phải tin rằng Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc cho ta, và không hề tiền định
số mạng đến nỗi chúng ta không thể thay đổi chính mình được.
Kết
luận
Câu hỏi về Tự Do Con Người và Thiên
Chúa Tiền Ðịnh luôn là đề tài chứa đựng nhiều bí ẩn. Nếu hiểu Thiên Chúa quan
phòng và tiền định cho ta có mặt trên đời (vì nếu ta không hiện hữu thì không
có gì để nói), và cho ta có lý trí tư duy và tự do lựa chọn (có vậy ta mới chịu
trách nhiệm cho hành động mình) thì hoàn toàn hợp lý. Nếu hiểu Thiên Chúa tiền
định cho mọi hành động của ta, hoặc Ngài biết ta phạm tội mà không ngăn cản...
thì cách hiểu này hoàn toàn sai lạc vì Thiên Chúa tiền định cho con người hiện
hữu, nhưng không tiền định cho từng hành động con người làm.
Với đức tin, ta không tin Số Mạng,
không tin Tiền Ðịnh mất Tự Do, không tin con người không thể quyết định cho
mình. Ngược lại, với đức tin, ta tin là "ơn
Cha luôn đủ cho con" (2 Cor 12:9) để trong mọi hoàn cảnh, ta vẫn có thể
làm lại cuộc đời. Hay nói cách khác, với đức tin và hồng ân Thiên Chúa thì
"xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều" (Nguyễn Du).
[1] Bài viết nhắm đến
quan niệm Tiền Ðịnh bởi Thiên Chúa hơn là sự Quan Phòng bởi Thiên Chúa. Tuy
nhiên, như định nghĩa mà giáo lý Công giáo cung cấp, một số Kitô hữu đồng hoá
"quan phòng" với "tiền định". Tác giả bài viết phân biệt
hai tư tưởng khác nhau. Và bài viết nhằm cắt nghĩa tương quan giữa tự do con
người và sự can thiệp của Thiên Chúa trong đời sống con người.
[2] Celsus viết tác phẩm
Lời Chân Lý khoảng năm 177 nhằm chống lại Kitô giáo. Tác phẩm của ông bị thất lạc,
và ta không biết đến, nhưng khi triết gia Origen viết cuốn Contra Celsum để biện
luận chống lại Celsus, Origen đã trích lại những lời của Celsus, nhờ đó chúng
ta biết đến tác phẩm Lời Chân Lý này.
[3] Và những đoạn tương tự
như trong Xuất Hành "Nhưng Ta, Ta sẽ
làm cho Pharaô ra cứng lòng" hay "Ta
sẽ làm cho dân Ai cập ra cứng lòng..." (Ex 7:3; 14:4; 14:7...)
[4] John Calvin
(1509-1564) là thần học gia Pháp, sinh ra với tên Jehan Cauvin. Ông là một nhà
cải cách Pháp tin vào thuyết Tiền Ðịnh của Thiên Chúa, cho rằng một số được
Thiên Chúa tiền định cho lên thiên đàng hưởng hạnh phúc, mà một số khác đã bị
tiền định phạt xuống hoả ngục. Với thuyết này, con người thật sự không có tự do
quyết định đời mình, hay nói theo J. Calvin, là dù con người có tự do quyết định,
nhưng những quyết định của họ đã bị tiền định trong hoàn cảnh hay điều kiện sống,
và vì thế, kết quả là những người đã bị tiền định xuống hoả ngục sẽ không thể
nào thoát được.
[5] Plato nói rằng kiến
thức chỉ áp dụng cho những gì có hiện hữu mà thôi. Trong cuốn Cộng Hoà Thứ Năm - Fifth Book of the Republic kể chuyện
Socrates nói với Glaucon khi phân biệt Kiến Thức và Ý Tưởng. Ta không có kiến
thức với cái Không Có, mà chỉ với cái nhưng cái thật sự Có (hiện hữu). Còn với
cái Không Có (không hiện hữu), ta chỉ có Ý Tưởng về nó mà thôi, chứ ta Không Biết
nó. (Xem Republic V.20, 476e, và Parmenides, 132b.)
[6] Thánh Augustine cũng
nói về Thiên Chúa biết trước mọi sự với lời giải thích: Thiên Chúa tạo dựng con
và ban cho con người Ý Muốn Tự Do. Chính Ý Muốn đó là nguyên nhân gây ra tội. Vậy
nếu Ý Muốn Tự Do là nguyên nhân động lực (self-cause), thì Thiên Chúa không phải
không biết, nhưng Ngài vẫn tôn trọng Tự Do Ngài ban. Nói cách khác, Augustine
cũng không giải thích tại sao Thiên Chúa biết có những việc xấu xảy ra mà không
ngăn cản, mà giải thích là Thiên Chúa tôn trọng tự do con người đến độ ngay cả
con người phản bội thì Thiên Chúa vẫn cam lòng.
[8] William L. Craig viết
nhiều sách và bài báo để chống lại những tố cáo sai lạc về mặt triết học của những
chủ trương
vô thần tấn công Kitô giáo. Cuốn Reasonable
Faith của ông được coi là có giá trị, và được tái bản lần thứ 3 vào năm
2008.