ngày tháng năm

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

TÓM TẮT CHƯƠNG BỐN “CÁC NGUYÊN TẮC CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI”


TÓM TẮT CHƯƠNG BỐN
“CÁC NGUYÊN TẮC CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI”

I. Ý nghĩa và sự thống nhất (160-163)


Tôi hân hạnh tóm tắt Chương Bốn của sách Tóm lược, chương này tập trung vào “các Nguyên tắc của học thuyết xã hội của Giáo hội”. Chương bắt đầu bằng cách xem xét “Ý nghĩa và sự thống nhất” của học thuyết xã hội của Giáo hội.
Ta được nhắc rằng rằng “các nguyên tắc trường tồn của học thuyết xã hội của Giáo hội cấu thành chính trọng tâm của Giáo huấn xã hội Công giáo”. Những nguyên tắc này là: “phẩm giá con người” là “nền tảng cho tất cả các nguyên tắc khác” (được trình bày trong chương trước), công ích; bổ trợ; và liên đới.

Những nguyên tắc này đề cập đến “thực tại của xã hội trong tính toàn bộ của nó” và chương này nhấn mạnh “thể thống nhất, tính quan hệ và liên kết mạch lạc với nhau của những nguyên tắc đó”. Chiều sâu luân lý của những nguyên tắc này là ở chỗ tham chiếu những nguyên tắc đó về vai trò của chúng với tư cách là “sự phát biểu hàng đầu về sự thật của xã hội” và là “các nền tảng tối hậu mang tính tổ chức của sinh hoạt xã hội”.

Nguyên tắc Công ích

 Ý nghĩa và những hệ luận hàng đầu (164-165)

Ta bắt đầu với nguyên tắc công ích. Nguyên tắc công ích bắt nguồn từ “phẩm giá, sự thống nhất và bình đẳng của mọi người”. Như Hội đồng thuật lại, “công ích, thật vậy, có thể hiểu là khía cạnh xã hội và cộng đồng của điều thiện hảo về luân lý”. Đây là một nhắc nhở rằng chúng ta không thể sống chính cho mình, mà phải sống cuộc đời của mình chung với cuộc sống của những người khác, trong gia đình, thành phố, vùng miền, các dân tộc và quốc gia, và như vậy, chúng ta không những chỉ sống “với” mà còn sống “cho” người khác.

Trách nhiệm vì công ích của mọi người (166-167)

Yêu cầu của công ích đối với đời sống cá nhân của chúng ta thay đổi. Các điều kiện xã hội, các chiều kích văn hóa, và các thời kỳ lịch sử khác nhau khẳng định các quyền cơ bản theo những phương cách khác nhau. Nhưng một số đòi hỏi dường như vượt qua các khác biệt này, và những điều này bao gồm việc dấn thân cho hòa bình, tổ chức công bằng quyền lực Nhà nước, một hệ thống tư pháp lành mạnh, việc bảo vệ môi trường, và việc cung cấp những gì là thiết yếu mà tất cả mọi người đều cần để sống còn và phát triển – thực phẩm, nhà cửa, công việc, giáo dục, văn hóa, vận chuyển, chăm sóc sức khỏe, tự do tư tưởng và tự do tôn giáo. Điều này có nghĩa là việc theo đuổi công ích phải thách thức việc phân phối bất bình đẳng các hàng hóa cơ bản, phải theo đuổi một sự phân phối hàng hóa công bằng hơn nhân danh công ích.
Vì chính Nhà nước phục vụ với tính cách là công cụ theo đuổi công ích, việc cung cấp các nhân tố này trở nên công việc của cộng đồng chính trị. Mục đích của các tổ chức chính trị là cung cấp cho dân chúng các thiện ích cần thiết về vật chất, văn hóa và tinh thần. Điều này có nghĩa là chính phủ tại mỗi nước hoặc dân tộc phải hướng đến một sự hài hòa giữa điều gì là tốt cho một nhóm giới hạn nào đó và điều gì là tốt cho dân chúng xét như một tổng thể.  Thế nhưng việc theo đuổi công ích không thể chỉ bị giới hạn vào sinh hoạt chính trị, vì chính trị có cứu cánh của nó nơi Thiên Chúa. Hội đồng nói rõ: “công ích của xã hội tự bản thân không phải là cứu cánh; nó chỉ có giá trị khi quy chiếu đến việc đạt đến các cứu cánh tối hậu của con người và công ích phổ quát của toàn thể tạo thành”.

Quyền chung hưởng của cải (171-184)

Chính vì công ích mà chúng ta có thể công nhận rõ ràng tầm quan trọng của của cải và việc phân phối của cải. Bởi vì nguồn gốc tối hậu của mọi của cải là Thiên Chúa, của cải phải dành cho tất cả mọi người chứ không phải dành riêng cho một nhóm nhỏ nào. Được ban cho chúng ta để tất cả mọi người sử dụng, ta phải tiếp tục phân phối của cải của trái đất này cho tất cả mọi người. Quyền chung nhau sử dụng của cải trái đất dựa trên quan niệm này, của cải là chung cho mọi người hưởng dùng. Quan niệm này quan trọng cho đến nỗi Hội đồng có thể nói rõ: “quyền dùng chung của cải là ‘nguyên tắc đầu tiên của toàn bộ trật tự đạo đức và xã hội’”. Khi ta áp dụng nguyên tắc này, ta phải xem xét việc phân phối của cải, nhưng ta phải làm điều này mà không sao lãng sự kiện tất cả mọi của cải đều xuất phát từ Thiên Chúa.
Điều này đem chúng ta đến sự xem xét vị trí của quyền tư hữu. Con người được ban quyền thống trị thế giới, “biến trái đất thành của mình”. Đây là nguồn gốc quyền tư hữu, mà Giáo hội xem là một “yếu tố căn bản của chính sách kinh tế thực sự mang tính xã hội và dân chủ” và “bảo đảm của toàn bộ trật tự xã hội đúng đắn”. Công nhận quyền làm chủ tối hậu của Thiên Chúa và các hàm ý của quyền đó, Giáo hội chuẩn thuận quyền tư hữu nhưng cũng công  nhận nhu cầu điều chỉnh quyền đó.
Điều này có nghĩa là, chẳng hạn, các vật liệu thay vì để không thì có thể được đem ra phục vụ theo nhu cầu của xã hội. Điều này có thể áp dụng vào việc phân phối công bằng đất đai. Nhưng có lẽ quen thuộc nhất trong điều được gọi là ưu tiên lựa chọn người nghèo. Bởi vì, trong Mátthêu 25,31-46 có viết rằng “người nghèo vẫn được ký thác cho chúng ta và chúng ta sẽ bị xét xử trong ngày tận thế”, ta có trách nhiệm đặc biệt chăm lo các nhu cầu của người nghèo và tránh việc yêu tiền bạc sự giàu sang một cách vô độ.

Nguyên tắc bổ trợ (185-188)

Một phương cách trong đó giáo huấn xã hội của Giáo hội đã được sống là bằng cách thực thi nguyên tắc bổ trợ. Có mặt kể từ thông điệp xã hội đầu tiên, Rerum Novarum (1892), bổ trợ chống lại sự tập trung và thói quan liêu của chính phủ và lãnh đạo vốn quá quen thuộc với chúng ta. Nói một cách đơn giản, bổ trợ nghĩa là “mọi xã hội thuộc trật tự cao hơn phải có thái độ trân trọng giúp đỡ (subsidium) – tức là hỗ trợ, thăng tiến, và phát triển – các xã hội thuộc trật tự thấp hơn”.
Nguyên tắc này bảo vệ chúng ta khỏi việc bị sự lạm quyền bởi các giới chức xã hội cấp trên thuộc chính phủ hoặc chính quyền. Theo nguyên tắc bổ trợ, cấp ra quyết định cần phải gần với những ai chịu tác động của những quyết định đó. Đúng ra, không phải lợi ích của những người có quyền lực mà là “tầm quan trọng hàng đầu của con người và cách thức diễn tả điều ấy trong xã hội, vẫn phải là tiêu chí để ra những quyết định có liên quan đến việc áp dụng nguyên tắc bổ trợ”. Khi được áp dụng, nguyên tắc bổ trợ làm phát sinh nguyên tắc kế tiếp của học thuyết xã hội, là tham gia.

Tham gia (189-191)

Nguyên tắc tham gia nghĩa là công dân, “với tư cách cá nhân hay liên kết với người khác, trực tiếp hay thông qua đại diện, đóng góp vào sinh hoạt văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội của cộng đồng dân sự” mà mình thuộc về. Ta không thể ủng hộ các xã hội cấp dưới nếu họ không thể hoặc không muốn tham gia vào những quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Đây là một cột trụ của sinh hoạt dân chủ và một bảo đảm cho hệ thống dân chủ. Trong những chế độ toàn trị hoặc độc tài, nguyên tắc này bị vi phạm ngay, nhưng trong nhiều hoàn cảnh khác, việc công dân không tham gia làm phát sinh hậu quả là trong thực tế người ta chối từ tham gia và không thể tiến hành nguyên tắc bổ trợ được.

Nguyên tắc liên đới (192-196)

Tham gia cũng là đòi hỏi của nguyên tắc xã hội kế tiếp, nguyên tắc liên đới, nguyên tắc này nhấn mạnh “mối quan hệ lệ thuộc nhau giữa các cá nhân và các dân tộc” được tìm thấy ở mọi cấp độ. Sự gia tăng liên tục về tính lệ thuộc lẫn nhau có nghĩa là chúng ta phải mưu tìm một sự liên đới luân lý-xã hội với tư cách là một nhân đức luân lý giúp chúng ta thay thế “các cấu trúc của tội” bằng “các cấu trúc của liên đới”. Có những quan hệ mạnh mẽ giữa liên đới và các nguyên tắc khác của giáo huấn xã hội. Các nguyên tắc này tìm thấy gốc rễ của mình trong sứ điệp của Đức Giêsu Kitô, và liên đới mặc lấy các chiều kích tha thứ và hòa giải, yêu mến người lận cận và sẵn sàng hy sinh vì họ.

Các giá trị cơ bản của cuộc sống xã hội (197-203)

Ngoài các nguyên tắc này, Giáo huấn xã hội Công giáo dựa trên các giá trị cơ bản. Các nguyên tắc và các giá trị có một mối liên hệ hỗ tương và giá trị, các thái độ và hành động luân lý đáp ứng lại các giá trị và nguyên tắc này. Trước hết trong số các giá trị này là Chân lý, và “bẩn phận cụ thể là phải luôn hướng tới sự thật, tôn trọng sự thật và làm chứng về sự thật một cách có trách nhiệm”. Thứ hai trong các giá trị này là Tự do, là dấu chỉ cao cả nhất nơi con người “được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, và do đó, cũng là dấu chỉ cho biết phẩm giá tuyệt vời của mỗi người”.
Thông qua tự do mọi con người đều được phép theo đuổi ơn gọi cá nhân của mình và tìm kiếm chân lý. Giá trị thứ ba là Công lý, Công bằng. Công lý “có ước muốn kiên định và vững chắc trả những gì mình mắc nợ Chúa và tha nhân” và được thực hành không phải chỉ qua công bằng giao hoán, phân phối và pháp lý, nhưng còn gia tăng qua việc theo đuổi công bằng xã hội. Nhưng ngay cả Công lý tự và trong bản thân là không đủ, bởi vì nó phải được đặt nền tảng trong sức mạnh tình yêu sâu xa hơn.

Con đường tình yêu (204-208)

Việc tóm lược các nguyên tắc học thuyết xã hội của Giáo hội sẽ không hoàn tất nếu không công nhận vị trí của tình yêu. Như Hội đồng nói: “chính từ nguồn cội yêu thương sâu xa mà các giá trị sự thật, tự do và công lý được khai sinh và phát triển”. Như Hội đồng nhắc chúng ta, “tình yêu vừa giả thiết có công lý vừa vượt lên trên công lý” có thể “làm sinh động và định hình cho sự tương tác trong xã hội” và đem lại và định hình cho công ích. Hội đồng kết thúc bằng sứ điệp tình yêu quan trọng này, biết rằng mọi điều thiện hảo đều bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa và chúng ta tìm thấy thành quả tối hậu của mình trong tình yêu của  Thiên Chúa. Hội đồng viết: “Chắc chắn đây là một hành vi yêu thương, một việc làm tỏ lòng thương xót, nhờ đó người ta có thể đáp ứng ngay lúc này và tại đây một nhu cầu thực sự và cấp bách của người thân cận, nhưng đây cũng là một hành vi yêu thương rất cần thiết nhằm tổ chức và xây dựng xã hội…..”. Đây, về mặt bản chất mà nói, chính là học thuyết xã hội của Giáo hội.

Lynn Bridgers
Thần học gia và Tác giả, New Mexico
Đan Quang Tâm dịch


Page

Blogger Tips and TricksLatest Tips And TricksBlogger Tricks