ngày tháng năm

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

TÓM TẮT CHƯƠNG BA “CON NGƯỜI VÀ NHÂN QUYỀN“

TÓM TẮT CHƯƠNG BA
“CON NGƯỜI VÀ NHÂN QUYỀN“

Chương Ba của sách Tóm lược
 tóm tắt phần giáo huấn của Học thuyết Xã hội Công giáo về con người, xem con người là nguyên tắc trung tâm của học thuyết. Giáo huấn này đang khẩn thiết ngỏ lời với chúng ta ngày hôm nay, bởi vì biết bao bất công xã hội vẫn tiếp tục diễn ra hàng ngày.

I.   Học thuyết xã hội và nguyên tắc nhân vị (105-107)

Chương này khai mở bằng cách nói rằng “Giáo hội nhìn thấy nơi mỗi một người, nam cũng như nữ, hình ảnh sống động của Thiên Chúa”. “Hình ảnh Thiên Chúa” (Imago Dei) này được mặc khải trọn vẹn trong mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô, “qua sự nhập thể của mình đã tự kết hợp một cách nào đó với mỗi người”. Do đó, Giáo hội cố gắng “là người đi tiên phong trên con đường của con người” và “mời gọi mọi người hãy nhìn nhận nơi mọi người… nhất là nơi người nghèo và người đau khổ… một người anh chị em ‘mà Đức Kitô đã chết cho’” (1 Cr 8,11; Rm 14,15).
“Toàn bộ Học thuyết Xã hội của Giáo hội… triển khai từ nguyên tắc khẳng định phẩm giá bất khả xâm phạm của con người”. “Con người… luôn luôn phải là chủ thể, là nền tảng và là mục tiêu” của xã hội loài người. Bởi thế Giáo hội “bảo vệ nhân phẩm” và tố cáo “các sự vi phạm nhân quyền”.

II.  Con người là “Hình ảnh Thiên Chúa” (Imago Dei) (108-123)
Tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (108-114)

“Thông điệp căn bản của Kinh Thánh công bố rằng con người là một thụ tạo của Thiên Chúa”, “được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”, là “nam và nữ”, có vị trí đứng tại “trung tâm và chóp đỉnh” của thế giới được tạo dựng, và có khả năng suy nghĩ, yêu mến, và tự do kết ước với tha nhân.
Con người cũng có thể ký kết “một giao ước đức tin và tình yêu với Đấng Tạo hóa”. Giáo hội tuyên bố rằng “Mối quan hệ này với Thiên Chúa có thể bị lơ là, thậm chí bị quên hay gạt sang một bên, nhưng không bao giờ có thể bị loại bỏ hẳn”. Mục đích của đời người là liên tục tìm kiếm và kết ước với Thiên Chúa. Thật vậy, con người, một hữu thể xã hội tự bản chất, tìm thấy “sự sống và sự tự thể hiện bản thân chỉ trong việc chung sống với những người khác”, “hướng về Thiên Chúa một cách tự nhiên”.
“Con người không phải là một hữu thể cô độc”, nhưng giống với Thiên Chúa, con người là một “hữu thể xã hội”. Thật vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng con người cả nam lẫn nữ, và tạo dựng cả hai theo hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, cả “nam lẫn nữ đều có phẩm giá như nhau và có giá trị ngang nhau”. Hơn nữa, qua việc chủ động hiến thân cho nhau, họ tự thể hiện bản thân qua sự chung sống và tham dự vào hành vi sáng tạo của Thiên Chúa bằng cách sản sinh ra sự sống mới.
Ngoài ra, “người nam và người nữ sống trong tương quan với tha nhân” và họ thậm chí đã được “ký thác” để sống với tha nhân. Sau trận Đại Hồng thủy, sứ điệp của Thiên Chúa cho Nôê hàm ý rằng “sự sống của mọi người phải được xem là thánh thiêng và bất khả xâm phạm”. Điều răn thứ năm sau này bảo ta: “Ngươi không được giết người” (Xh 20,13; Đnl 5,17). Cuối cùng, Đức Giêsu nhắc lại sứ điệp của sách Lêvi (19,18) khi Người tuyên bố: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Mt 22,37-40; Mc 12,29-31; Lc 10,27-28).
Con người còn có tương quan và trách nhiệm với những tạo vật khác thuộc thế giới thiên nhiên, mà họ được kêu gọi “phục vụ” với “trách nhiệm”. Dù cho, theo  sách Tóm lược,  con người có thống trị trên thiên nhiên và muôn loài, thì con người cũng phải tránh “việc khai thác tùy tiện và ích kỷ” bởi vì  “Toàn thể tạo thành thực ra đều có giá trị và ‘tốt đẹp’ trước mặt Thiên Chúa, tác giả của chúng”.
Con người cũng cần quan tâm đến đời sống tâm linh nội tâm, đây là điểm tách biệt họ với các tạo vật khác của Thiên Chúa. Cả lý trí lẫn ý chí tự do sẽ là “các quan năng tinh thần thuộc về con người một cách xứng hợp nhất”. Chỉ có bằng cách vun trồng một quan hệ lành mạnh với bản thân thì người ta mới có thể sử dụng lý trí và ý chí tự do để biết được chân lý.  “Tâm hồn của con người” với tư cách là “sự linh thiêng bên trong” có “những khát vọng thâm sâu” về Thiên Chúa, như được diễn tả qua những lời trong Quyển Tự Thú của Augustinô:  “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con cho Chúa, nên tâm hồn chúng con khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.

Bi kịch của tội (115-119)

Chẳng may, lịch sử nhân loại đã bị vấy bẩn bởi “sự xuất hiện bi đát của tội nguyên tổ”.  Theo  sách Tóm lược, “Qua cử chỉ [phạm tội] này, con người đã phá vỡ giới hạn thụ tạo của mình, thách thức Thiên Chúa… nguồn sự sống”. Kết quả không phải chỉ là tội cá nhân, mà còn là tội “đã ảnh hưởng tới bản tính nhân loại mà [con người] đã truyền lại trong tình trạng sa ngã”. Vì lý do này, bản tính nhân loại “bị tước đi sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ”.
Vết thương” này nay ở trong “nơi sâu xa nhất của con người” là “gốc rễ các chia rẽ của cá nhân và xã hội” và các sự thù nghịch khắp cả gia đình nhân loại. Theo sau “tội đầu tiên” này, ta có câu truyện Cain và Abel, về “anh em thù ghét nhau và sau cùng là cảnh người anh lấy mạng sống của người em” (x. Stk 4,2-16)”. Rồi, trong câu truyện tháp Babel ta tìm thấy “sự tan nát của gia đình nhân loại”.
Mầu nhiệm của tội, sách Tóm lược nói tiếp, chứa đựng “một vết thương hai mặt” – một mặt ở nơi tội nhân và mặt kia ở trong các mối quan hệ với tha nhân. Tội cá nhân và tội xã hội không bao giờ có thể tách rời nhau, như thể có một số tội chỉ mang tính cá nhân (mà không có các hậu quả xã hội) và những tội khác chỉ có tính xã hội (mà không có trách nhiệm cá nhân). Vì thế, tất cả các tội đều có tính cá nhân và tính xã hội, vì tội là những hành vi tự do của những cá nhân trong đó có các hàm ý xã hội.
Tuy nhiên, một số tội mang ý nghĩa xã hội một cách đặc biệt, nghĩa là, các tội này “do chính đối tượng của chúng cấu thành một sự xâm hại trực tiếp các người khác”.  Sách Tóm lược kể ra ở đây “mọi tội xúc phạm tới sự công bằng phải có trong các quan hệ giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với cộng đồng, và cả giữa cộng đồng với cá nhân”.  Tội xã hội là các tội “chống lại các quyền của con người, khởi đi từ quyền sống, bao gồm cả quyền sống ngay từ trong bụng mẹ, chống lại sự toàn vẹn thân thể… tự do (bao gồm cả tự do tôn giáo)… nhân phẩm… công ích… các quyền và bổn phận của công dân”. Tất cả các mối quan hệ “không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa” về “công lý… tự do… và hòa bình” đều là tội xã hội.

Tính phổ quát của tội và tính phổ quát của ơn cứu độ (120-123)

Các hậu quả của tội kéo dài mãi mãi các cơ cấu của tội”. Điều này khiến cho “khó tẩy trừ chúng”, vì “chúng càng mạnh hơn, sinh sôi nảy nở và trở nên nguồn gốc của các tội khác”. Các tội cá nhân và xã hội tiếp diễn qua các thế hệ, cuối cùng trở thành một phần trong kinh nghiệm của con người. Ngày hôm nay ta thấy lan tràn một cách đặc biệt  hai “cơ cấu” đó của tội xã hội: 1) “ước muốn tất cả cho lợi nhuận”; và 2) “sự khao khát quyền lực” – cả hai được theo đuổi “bằng bất cứ giá nào”.
Nhưng hi vọng hiện hữu nơi “sự phổ quát của ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô”. Không có niềm hi vọng vào quyền năng cứu chuộc của Đức Giêsu, nhân loại trở nên bi quan và sống vô cảm. Qua vị Ađam mới, “Đấng chiếu sáng chan hòa và hoàn thành hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” nơi con người, trong tất cả tạo thành – thiên, địa, nhân – sẽ được  “giải thoát khỏi tiêu vong” nhờ lời hứa về sự sống đời đời với Thiên Chúa là Đấng Tạo thành.

III.  Những khía cạnh đa dạng con người
Dẫn nhập (124-126)

Học thuyết Xã hội Công giáo, “đánh giá cao thông điệp tuyệt vời của Thánh Kinh”, nhìn xem con người trong tổng thể của nó như là một thụ tạo phúc tạp mang tính thánh thiêng. Giáo hội không rơi vào các hệ thống giản lược hóa đủ kiểu của lịch sử “tìm cách làm cho hình ảnh của con người trở nên mơ hồ do chỉ nhấn mạnh một đặc điểm nào đó và bỏ đi các đặc điểm còn lại”. Giáo hội cảnh báo việc quan niệm con người chỉ là một tổng hợp các tế bào trong một cơ thể mang tính máy móc, hoặc như các đơn vị cá nhân bị trốc gốc khỏi bối cảnh chung của chúng. Làm người là phải biết liên đới với tha nhân trong khi duy trì một mối liên kết vững mạnh với Thiên Chúa, “siêu việt và là Đấng Tạo Hoá, và thông qua mọi loài thụ tạo, Người mời gọi con người và ban cho con người trách nhiệm và tự do”.

Tính thống nhất của con người (127-129)

Con người “được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất xác hồn”, và Thiên Chúa  đã trao toàn bộ xác hồn này cho chủ thể cá nhân,  là người chịu trách nhiệm về các hành động của mình về mặt luân lý. Thân xác con người cho phép người ta được hiện hữu và hoạt động trong thế giới vật chất, nhưng, do tội, người ta luôn luôn cần phải cảnh giác để khỏi bị trở thành nô lệ cho các đối tượng thuộc thế giới vật chất và cho một “nhân sinh quan hoàn toàn trần tục”. Người ta cũng không được “khinh thường sự sống thân xác;đúng ra, ‘con người… có nghĩa vụ xem thân xác là tốt lành và cao quý bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng thân xác và cho thân xác sống lại vào ngày sau hết”.
Chiều kích tâm linh của cuộc sống con người cho phép người ta được đàm đạo cùng Thiên Chúa trong cõi thâm sâu nhất của tâm hồn họ. Linh hồn bất tử và linh thiêng làm cho con người “linh ư vạn vật” và cũng cho phép người ta suy tư về yếu tính không thể giản lược của mình với tư cách là một thụ tạo của Thiên Chúa được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.
Các bản tính xác hồn của con người hình thành một thể thống nhất không thể giản lược là thuần vật chất (xem rẻ chiều kích tâm linh của sự sống con người) hoặc thuần tinh thần (hạ giá thân xác như một cản trở cho việc trở nên hoàn hảo với Thiên Chúa).

Mở ra với siêu việt và tính độc nhất vô nhị của con người (130-134)

Mở ra với siêu việt. Hữu thể con người, qua trí khôn của mình, mở ra cho sự siêu việt của Thiên Chúa, cũng như cho yếu tính của các hữu thể được tạo dựng khác. Do đó, người ta có tính tương quan, vì trí khôn của người ta và xu hướng hướng đến cái tuyệt đối và chân lý dẩn người ta ra khoi các bức tường ích kỷ của bản thân.
Độc nhất và không thể sao chép. Thế nhưng, sách Tóm lược lưu ý rằng mỗi người là độc đáo và “không thể sao chép” và sở hữu một trí khôn và ý thức độc đáo, cho phép họ suy tư về chính mình. Người ta phải cẩn thận không được lẫn lộn trí khôn và ý thức như là các thuộc tính định nghĩa con người, vì điều này sẽ giảm thiểu toàn thể yếu tính của con người với tư cách là tạo vật theo hình ảnh của Thiên Chúa. Người ta “không ngừng là con người” cho dù có thiếu trí khôn và ý thức.
Tôn trọng nhân phẩm. Với tư cách là “cứu cánh tối hậu của xã hội”, con người phải là cơ sở của trật tự xã hội và các quy trình đa dạng của xã hội. Sách Tóm lược nói rằng “Mọi chương trình chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và văn hoá đều phải được gợi hứng từ ý thức về sự ưu việt của từng con người vượt trên cả xã hội”. Xã hội không được có những hạn chế ngăn cản sự phát triển toàn diện của con người với tư cách là một thể nhân có những nhu cầu về thân xác và tâm linh.
Vì con người đại diện cho điểm khởi đầu của xã hội, thay đổi xã hội thực sự chỉ xảy ra khi khi các cá nhân bắt đầu thay đổi bằng cách hướng ý chí của mình đến công lý và tình yêu của Thiên Chúa. Việc đề cao công lý, tính lương thiện và chân thật trong xã hội “là nhiệm vụ của hết mọi người, đặc biệt là của những người đang nắm giữ các trách nhiệm về chính trị, tư pháp hay chuyên môn đối với những người khác…”

Tự do của con người  (135-143)

Giá trị và giới hạn của tự do. Tự do là một dấu hiệu và là một quà tặng của Thiên Chúa. Mỗi người được tự do quyết định, kể cả việc tự do lựa chọn việc tìm kiếm và tuân thủ luật luân lý của Thiên Chúa. Tự do cũng cho phép người ta được thay đổi các tình thế nội tại và ngoại không phù hợp với luật luân lý của Thiên Chúa.
Như thế, mặc dù sở hữu tự do, con người vẫn còn phụ thuộc vào Thiên Chúa. Nói cách khác, tự do không phải là vô hạn, bởi vì tự do phải chấp nhận luật luân lý của Thiên Chúa, luật này, nếu tuân theo vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, thì sẽ thực sự giải thoát con người khỏi tình trạng bị sự dữ cầm tù. Việc hoán cải cá nhân theo luật luân lý của Thiên Chúa, xuất phát từ việc tự do kiếm tìm của con người, là điều cốt yếu phải có trước khi thực hiện các thay đổi xã hội.
Mối liên kết nối kết tự do với sự thật và luật tự nhiên. Sách Tóm lược nói: “Khi thực thi tự do, con người thực hiện những hành vi tốt về mặt luân lý, có giá trị xây dựng con người và xã hội, nếu con người biết tuân theo sự thật, nghĩa là không tự coi mình là tạo hoá và là chủ nhân tuyệt đối của sự thật hay các chuẩn mực đạo đức”. Tự do, như đã nói ở trước, là một món quà của Thiên Chúa cần phải được hướng đến sự thiện. Sự vun trồng này đối với tự do hướng đến điều thiện đem lại kết quả là sự đào luyện lương tâm của mình, có thể giúp người ta nhận ra, với sự giúp đỡ của luật luân lý tự nhiên, điều gì là tốt và điều gì là xấu  – điều gì nên làm và điều gì nên tránh. Luật luân lý tự nhiên là sự thấm nhuần sự khôn ngoan của Thiên Chúa vào trong trí khôn con người để giúp người ta hiểu rõ hơn thiện ác. Luật luân lý tự nhiên mang tính phổ quát bởi vì nó phù hợp với bản tính con người. Và nó dạy rằng tất cả mọi người đều phải tùng phục Thiên Chúa và bình đẳng với những người đồng loại khác.
Luật tự nhiên cũng hợp nhất các cá nhân từ những bối cảnh đa dạng. Dù Giáo hội nhận thức rằng mỗi hoàn cảnh đều khác nhau và cần có sự chú ý đặc biệt, thì luật tự nhiên “vẫn là  bất biến‘dưới các luồng tư tưởng và phong tục tập quán và hỗ trợ sự tiến triển của các tư tưởng và phong tục tập quán ấy… Ngay cả khi người ta chối bỏ các nguyên tắc của luật tự nhiên, luật tự nhiên vẫn không thể bị tiêu diệt hoặc khai trừ khỏi tâm hồn con người. Nó luôn luôn tái xuất hiện trong đời sống các cá nhân và các xã hội”. Như thế, tự do của con người, đã bị khuất phục và nghiêng về các thế lực sự dữ kể từ buổi khởi đầu của nhân loại, yêu cầu luật tự nhiên phải theo luật luân lý của Thiên Chúa trong sự tự do chung và liên đới với toàn thể gia đình nhân loại. Sự tự do chung này để tuân thủ luật luân lý của Thiên Chúa xuất phát từ sự hy sinh do Đức Giêsu Kitô thực hiện trong đó Người giải phóng nhân loại khỏi xu hướng ích kỷ chỉ yêu mỗi bản thân mình và do đó làm ngơ và khước từ Thiên Chúa và tha nhân.

Phẩm giá bình đẳng của tất cả mọi người (144-148)

Nhân phẩm, xuất phát từ việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, được ban cho tất cả mọi người, “không phân biệt chủng tộc, dân tộc, phái tính, nguồn gốc, văn hóa hoặc giai cấp”. Việc công nhận nhân phẩm được tìm thấy nơi mọi người cho phép cá nhân và xã hội tiến tới một trật tự xã hội thực sự nhân bản và biết ưu tư cho số phận của những người yếu đuối nhất. Nhưng việc bảo vệ và vun trồng ý thức nhận biết mọi người đều có nhân phẩm ngang nhau sẽ là điều bất khả thi nếu không có sự hỗ trợ của cộng đồng: “Chỉ khi các hành động hỗ tương giữa các cá nhân và giữa các dân tộc thực sự nhắm tới ích lợi của hết mọi người thì tình huynh đệ đại đồng đích thực mới có được; bằng không, tất cả chúng ta sẽ nghèo nàn hơn do các tình trạng chênh lệch và bất bình đẳng nghiêm trọng vẫn tồn tại”.
Người nam và người nữ, bản tính vốn bổ sung cho nhau, đều đáng được đối xử ngang nhau về  sự tôn trọng phẩm giá. Sự kết hợp giữa hai phái là nền tảng cho xã hội và lịch sử con người. Sách Tóm lược nói rằng “trong sự gặp gỡ giữa người nam và người nữ, một quan nhiệm thống nhất về con người được hình thành, không dựa trên logic tập trung vào bản ngã và tự khẳng định mình, mà dựa trên logic yêu thương và liên đới”.
Những người thiểu năng cũng là những chủ thể có đầy đủ nhân phẩm, bởi vì “họ cho thấy rõ ràng hơn phẩm giá và sự cao cả của con người”. Các cộng đồng nên trợ giúp những cá nhân khuyết tật tham gia vào toàn bộ sinh hoạt gia đình và xã hội. Khước từ những cá nhân khuyết tật quyền tiếp cận những lĩnh vực xã hội này là rơi vào một “hình thức kỳ thị nghiêm trọng, là phân biệt người mạnh khoẻ với người đau yếu”. Các cộng đồng không những phải xem xét việc loại bỏ các trở ngại xã hội và kinh tế áp chế những người khuyết tật mà còn cần phải công nhận nhu cầu yêu thương và sự thân mật giới tính là gắn với nhân phẩm của họ.

Bản tính xã hội của con người (149-151)

Con người tự bản chất là các hữu thể xã hội “vì Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người, muốn như thế”. Sự kiện con người là hữu thể xã hội đã đưa đến sự phát triển nhân bản một cách độc  đáo của các xã hội. Con người là các hữu thể có tương quan, tính tương này được thể hiện cao nhất trong sự hợp nhất và liên đới với tha nhân. Tuy nhiên, do tội “kiêu căng và ích kỷ”, không phải mọi người đều mặc nhiên kết liên với đồng loại. Cách hành xử phản xã hội này dẫn đến xu hướng người ta tìm cách thống trị người khác, và điều này làm thất bại bất kỳ viễn cảnh nào về công ích. Tất cả mọi người trong xã hội, do đó, cần phải đồng tâm nhất trí theo đuổi một mục tiêu luân lý chung nhằm đề cao lẫn phát huy nhân phẩm của mỗi người và tinh thần trách nhiệm của họ đối với nhau. Điều này áp dụng đối với các mối tương giao trong tất cả các xã hội.

Nhân quyền
Giá trị của Nhân quyền (152-154)


Sách Tóm lược cho rằng “Phong trào tiến tới chỗ xác định và công bố các quyền của con người là một trong những cố gắng quan trọng nhất nhằm đáp ứng một cách hữu hiệu những đòi hỏi tất yếu về nhân phẩm”. Bởi vì nhân phẩm mang tính phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả chuyển nhượng, nên Giáo hội Công giáo khẳng định rằng văn kiện nền tảng của Liên hiệp quốc năm 1948, Bản Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền, là một cột mốc trên con đường hướng đến một trật tự xã hội nhân bản hơn. Giáo hội cũng công nhận rằng con người – chứ không phải Nhà nước và các cơ quan công quyền khác – mới là nền tảng cho nhân phẩm và nhân quyền. Các quyền trong các lĩnh vực tinh thần và vật chất phải phát huy tác dụng đối với nhau. Ngoài ra, cần phải cùng nhau tham gia bảo vệ và đề cao nhân phẩm và công lý.  Đời sống luân lý không phải là nhiệm vụ của riêng một người nào.

Các quy định về nhân quyền (155)

Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, Công đồng Vatican II, Đức Giáo hoàng Phaolô VI, và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh những điều mà Giáo hội xem là các vấn đề cấp bách nhất về nhân quyền. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II liệt kê các vấn đề nhân quyền trong Thông điệpCentesimus Annus (Bách Niên) của ngài: quyền sống, mà một bộ phận khăng khít là quyền của trẻ em được phát triển trong lòng mẹ từ giây phút thụ thai; quyền được sống  trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân lý dẫn đến sự tăng trưởng nhân cách của trẻ em; quyền được phát triển trí khôn và tự do của mình trong việc tìm kiếm và biết sự thật; quyền được chia sẻ công việc sử dụng một cách khôn ngoan các tài nguyên vật chất của trái đất và qua công việc đó có được phương tiện để độ thân và cấp dưỡng cho những người phụ thuộc; và quyền tự do tạo lập gia đình, nuôi nấng con cái thông qua việc thực thi một cách có trách nhiệm khả năng tính dục của mình. Theo một nghĩa nào đó, nguồn gốc và sự tổng hợp các quyền này tự do tôn giáo, được hiểu là quyền được sống trong  chân lý đức tin của mình và phù hợp với phẩm giá siêu việt của con người.

Quyền và bổn phận (156)

Tất cả mọi người nam cũng như nữ đều có bổn phận bảo vệ và đề cao nhân quyền. Các quyền và các bổn phận nối kết với nhau và bổ sung cho nhau, bởi vì không thể nào có được các quyền mà mọi người lại không có bổn phận đề cao chúng.

Quyền của các dân tộc và các quốc gia (157)

Nhân quyền áp dụng đối với cá nhân và cộng đồng. Nói cách khác, “các quyền của các quốc gia chỉ là ‘nhân quyền được vun đắp ở cấp độ cuộc sống cộng đồng’”. Bổn phận của các quốc gia là đề cao hòa bình, tôn trọng lẫn nhau và liên đới trong trật tự xã hội của mình cũng như trong các tương giao với các quốc gia khác.

Lấp đầy khoảng cách giữa chữ viết và tinh thần (158-159)

Giáo hội Công giáo nhìn nhận rằng dù cho có nhiều người nhiều giới tuyên bố ủng hộ nhân quyền, nhưng nhiều hình thức bất công vẫn xảy ra trên khắp thế giới. Sách Tóm lược nhìn nhận rằng ngay cả “Giáo hội cảm nghiệm sâu sắc nhu cầu phải tôn trọng công lý và các quyền con người ngay trong hàng ngũ Giáo hội”. Tín thác nơi Thiên Chúa và cộng tác với các quốc gia khác, các tổ chức phi chính phủ, các tôn giáo trên thế giới, và các phong trào khắp hoàn cầu, Giáo hội tìm cách xác lập và bồi đắp nhân quyền cho toàn thể gia đình nhân loại. Hình ảnh của Thiên Chúa (Imago Dei) luôn luôn là nền tảng cho Giáo hội tiến đến một xã hội tôn trọng luật luân lý của Thiên Chúa. Việc phấn đấu cho một trật tự xã hội nhân bản hơn chỉ có thể hoàn thành được nhờ sự trợ giúp đỡ Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa và trong sự đoàn kết với những người đồng loại và các cộng đồng.

CÉSAR J. BAL DE LOMAR
Giám đốc Điều hành,
Trung tâm Pax Romana Nghiên cứu Quốc tế về Giáo huấn Xã hội Công giáo
Sinh viên Cao học, Trường Thần học Harvard, Đại học Harvard, Cambridge

Đan Quang Tâm dịch

Page

Blogger Tips and TricksLatest Tips And TricksBlogger Tricks