Chúa Nhật Lễ Lá, năm
B
Người ta thường nói:
“Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông
khổ” hoặc “ao khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ, là
một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười,
ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ
thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.
Hơn 2000 năm trước, Thích Ca Mâu Ni
là người sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn
thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề
để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và
Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Muốn thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên
qua đau khổ. Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung
hô khi tay họ cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu
“hành trình đau khổ”.
TÔI TỚ ĐAU KHỔ
Ngôn sứ Isaia nhiều lần tiên báo về
“người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói
năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông
xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn
tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).
Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và
“không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người
ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin
mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ
mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông
là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ”
từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.
Tác giả Thánh vịnh mô tả về tình
trạng chịu nhục nhã ê chề:
Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:
“Nó trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ
để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị
khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:
Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương
con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ bị đau khổ đến
tận cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu
mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)
Đồng thời vẫn muốn tôn vinh Thiên
Chúa trong chính những đau khổ của mình:
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con
xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín
với Thiên Chúa, tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng
Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen
tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).
CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ
Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác
định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức
trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?
Trong tác
phẩm Authority: Its Use and Abuse (*) có
kể một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), đáng để
chúng ta noi gương: Mỗi Chúa nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà không báo trước, ngồi tòa giải tội
khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và
linh mục quản xứ; ngài không bao giờ
cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa
giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự
hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) không phải là chứng nhân Tin Mừng mà là
chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12
giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự
những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ
chính tòa; ngài không tổ chức mừng
ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp
các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3. Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng
và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không
đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong
giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài
phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng
Giám Mục,...; ngài không bao giờ đi
nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên
tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác
bởi chính giáo dân trong giáo phận; không
bao giờ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì
người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên
báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật
đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài
một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài
không nhận, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các
linh mục khác trong giáo phận; ngài không
muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến
đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa
phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không
có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài
rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền
bính là để phục vụ.
Tại Việt Nam có gương
sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP
Saigon), vị tông đồ của người cùi. Ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư
nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi
người.
Những
chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì đúng là những mục tử của Chúa, dám
quên mình vì đoàn chiên.
Chúa Giêsu không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên
thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến
tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên
muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi
vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật
phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng
tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa”
(Pl 2:11).
Trong cuộc sống, không ai muốn đau
khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận
hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người miệt mài đêm ngày
đi tìm hạnh phúc. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống. Thậm chí
những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên
khùng”.
Bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo
đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo,
trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt
và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này
sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng
hạn trường hợp của Chân phước GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành
“tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi
diều.
Còn Chúa Giêsu, khi bị xét xử, dù
không ai thấy Ngài có tội gì ngoài “tội làm điều tốt”, không hề có luật sư bào
chữa. Phúc âm theo thánh sử Mác-cô ghi rõ rằng vừa tảng sáng, các thượng tế đã
họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Ông Philatô hỏi Ngài:
“Ông là vua dân Do Thái sao?” (Mc 15:2a).
Chúa Giêsu trả lời: “Đúng như ngài nói đó”
(Mc 15:2b). “Đúng như ngài nói đó”, một câu nói đơn giản mà thâm thúy và khiêm nhường. Chúa Giêsu không hề tự nhận là Vua-dân-Do-Thái mà tại
người ta nói vậy. Ngài chỉ tự nhận là Con-Số-Không: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa
đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58) và “Tôi đến không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn
người” (Mc 10:45).
Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội,
nên ông Philatô lại hỏi: “Ông không trả
lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” (Mc 10:4). Nhưng
Đức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến
ông Philatô phải ngạc nhiên. Người hiểu thì không cần giải thích, người không
hiểu thì giải thích cũng vô ích.
Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Philatô thường
phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có tử tù “khét tiếng”
Baraba đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi
dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Ông
Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng
thích cho các ông vua dân Do Thái không?” (Mc 10:9). Ông thừa biết chỉ vì
ghen tị mà các thượng tế nộp Ngài. Nhưng các thượng tế xách động đám đông đòi
ông Philatô phóng thích Baraba. Bị áp lực mạnh nên ông Philatô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông
gọi là vua dân Do Thái?”. Họ la lên: “Đóng
đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:13). Ông Philatô muốn tha Chúa Giêsu vì thấy
Ngài vô tội, nhưng ông ta hèn nhát và sợ mất chức quyền, ông cù cưa: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” (Mc
10:14a). Nhưng họ càng la to: “Đóng đinh
nó vào thập giá!” (Mc 10:14b).
Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô
phóng thích Baraba và truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Ngài cho họ đóng đinh
vào thập giá. Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong dinh tổng trấn, và tập trung cả
cơ đội lại. Chúng khoác cho Ngài một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương
miện đặt lên đầu Ngài, rồi mỉa mai: “Vạn
tuế đức vua dân Do Thái!” (Mc 10:18). Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Ngài,
khạc nhổ vào Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Ngài mặc áo lại
như trước. Vải dính vào những vết thương sẽ rất đau đớn khi bị giật áo ra. Cảnh
tượng thật hãi hùng!
Thường thì các tử tội được ân huệ sau
cùng, nhưng Chúa Giêsu không hề được ân huệ cuối cùng nào, có chăng chỉ là chút
giấm chua. Bị hành hạ đủ kiểu, thương tích đầy mình, thế mà Ngài còn phải tự
vác thập giá đi lên đồi. Lúc ấy, có một người tên Simôn (gốc Kyrênê, từ miền
quê lên) đi ngang qua đó. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Tới
Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng trao rượu pha mộc dược cho Ngài, nhưng Ngài
không uống. Chúng đè Ngài xuống và đóng đinh vào thập giá, rồi đem áo Ngài ra
bắt thăm mà chia nhau. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba (khoảng 9 giờ
sáng).
Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên
cướp. Ngài bị liệt vào hạng những tên phạm pháp. Kẻ qua người lại đều nhục mạ
Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá
Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà
cứu mình đi!” (Mc 10:29-30). Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Ngài
như vậy, và kháo nhau: “Hắn cứu được
thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình”. Rồi họ thách thức: “Ông Kitô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để
chúng ta thấy và tin” (Mc 10:31-32). Thậm chí cả một tên cùng chịu đóng đinh
với Ngài cũng không biết thân mà còn nhục mạ Ngài.
Bóng tối bao phủ khắp mặt đất từ giờ
thứ sáu đến giờ thứ chín (khoảng 12 giờ tới 15 giờ). Một hiện tượng thiên nhiên
bất thường, vô cùng kỳ lạ. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma-xa-bác-tha-ni!” – nghĩa
là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con,
sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 10:34). Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói:
“Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Có kẻ
chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho
Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có
đến đem hắn xuống không”.
Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn,
rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống
dưới. Lại một sự kiện lạ lùng nữa. Chính viên đại đội trưởng đứng đối diện với
Đức Giêsu, thấy Ngài tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 10:39). Thế là hoàn tất
hành-trình-đau-khổ. Người không tin thì đó là thất bại ê chề của Đức Kitô,
nhưng họ lầm to. Đối với những người tin Ngài thì đó là Ơn Cứu Độ. Giáo hội
cùng chịu Đại Tang, không chỉ là quốc tang mà còn là thế giới tang!
Lạy
Chúa, chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Chúa, xin thương xót và tha thứ. Xin
cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho chúng con. Chúng con thật may mắn và
hạnh phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên qua cái chết của Đức Kitô.
Xin giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành
trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót, để chúng con cũng
được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN
THU
(*) Authority: Its Use and Abuse (Sử dụng và Lạm dụng quyền bính),
sách của LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).