Miến Điện nằm trên cửa ngõ xuống Vịnh Bengal của Trung Quốc |
Miến
Điện cùng Thái Lan, Lào, Việt Nam và Campuchia là năm quốc gia trên bán đảo
Trung Ấn nằm trong kế hoạch mở đường xuống vùng biển phía Nam của Trung Quốc.
Từ năm
1995, Bắc Kinh tiến hành đề án xây dựng Năm Vùng Kinh tế đặc biệt, gọi tắt là
SEZ (Special Economic Zone) và 14 Thành phố Hải cảng Mở (Open Coastal Cities)
dọc các bờ biển.
Cơ hội
đã đến khi năm 1992, Campuchia, Lào, Miến Điện và Việt Nam, gọi tắt là CLMV, và
Thái Lan là năm quốc gia được Ngân Hàng Phát triển Á Châu mời tham dự vào đề
án xây dựng Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion) để bảo đảm
nguồn cung cấp lúa gạo cho toàn khu vực.
Mở đường xuống Vịnh Bengal
Không
ngờ chương trình này trùng hợp với dự án xây dựng các Vùng Kinh tế đặc biệt của
Trung Quốc và năm 2009, Bắc Kinh đã thành công trong việc gán ghép các tỉnh
Quảng Châu, Vân Nam vào tiểu vùng sông Mêkông để tạo thành một khu vực kinh tế
lớn hơn, rộng 2,6 triệu km2 với 326 triệu dân.
Từ đó đến nay, Trung Quốc trở
thành quốc gia đầu tàu lãnh đạo tiểu vùng hạ lưu sông Mêkông.
Khi
quốc lộ 13 nối liền Lào và Quảng Tây hoàn tất, chắc chắn Bắc Kinh sẽ đề nghị
canh tân toàn bộ hệ thống hạ tầng cơ sở chiến lược của Campuchia: phi trường,
hải cảng, bến cảng, trục lộ giao thông chính để bảo đảm nguồn tiếp tế tài
nguyên nhiên vật liệu từ vịnh Thái Lan vào tỉnh Quảng Tây.
Chỉ còn
lại Thái Lan, một quốc gia dân chủ mà Bắc Kinh đang tìm cách lôi kéo vào quỹ
đạo ảnh hưởng. Những xáo trộn chính trị gần đây tại Thái Lan nằm trong kế hoạch
hoạch này.
Để thực
hiện kế hoạch mở đường xuống vùng biển phía Nam, Bắc Kinh đang củng cố ba tuyến
đường bộ từ biên giới Vân Nam xuống Vịnh Bengal và Vịnh Thái Lan. Tuyến thứ
nhất từ Côn Minh đến Mandalay (Miến Điện), tuyến đường thứ hai từ Côn Minh đến
Chiang Rai (Thái Lan) băng ngang tiểu bang Shan của Miến Điện, tuyến đường thứ
ba cũng từ Côn Minh đến Chiang Rai (Thái Lan) nhưng qua các tỉnh Luang Nam Tha
va Bokeo trên lãnh thổ Lào.
Trong
sách lược mở đường xuống phía Nam, Miến Điện có lẽ là vùng đất lý tưởng mà ban
lãnh đạo tại Bắc Kinh nhắm tới : diện tích rộng (678.500 km2), dân số thấp (48
triệu người), nhiều tài nguyên thiên nhiên lại có một vùng biên giới dài 2.185
km với Trung Quốc.
Tướng Bo Mya của lực lượng vũ trang sắc tộc Karen |
Về quân
sự, từ năm 1988, Trung Quốc trở thành quốc gia cung cấp vũ khí chính của Miến
Điện, từ các loại súng hạng nhẹ, đại pháo đến các loại xe bọc sắt, chiến xa và
phi cơ chiến đấu. Với lượng vũ khí này, chế độ quân phiệt Miến Điện dẹp tan các
cuộc nổi dậy của người thiểu số. Năm 1989, với sự dàn xếp của Trung Quốc,
Rangoon đã thành công trong việc thuyết phục 17 nhóm sắc tộc vũ trang chấp nhận
buông súng và ký một hiệp ước đình chiến. Bù lại, các nhóm sắc tộc được toàn
quyền quản lý nguồn thuốc phiện sản xuất tại địa phương.
Về dầu
khí, cho đến năm 2004 chỉ Total của Pháp được quyền dò tìm và khai thác dầu khí
tại Yanada (từ năm 1992), một khu vực nằm giữa Miến Điện và Thái Lan. Mặc dù
sinh sau đến muộn, từ sau 2004, 16 công ty quốc doanh Trung Quốc làm chủ 21 dự
án khai thác dầu khí lớn. Miến Điện có nguồn trữ lượng khí đốt thiên nhiên tại
Sittwe đứng hạng thứ 10 trên thế giới. Công ty PetroChina, một chi nhánh của tổ
hợp quốc doanh China National Petroleum Corporation (CNPC), được quyền khai
thác 30 năm khi đốt thiên nhiên tại Sittwe trong vịnh Bengal.
Về hạ
tầng cơ sở, các công ty Trung Quốc được quyền tự do ra vào Miến Điện khai thác
tài nguyên, xây dựng đường sá và bến cảng để vận chuyển hàng hóa và nguyên vật
liệu.
Năm
2006, tổ hợp CNPC được quyền xây dựng hai ống dẫn khí đốt và dầu hỏa, với một
tổng trị giá 2,5 tỷ USD, từ cảng Kyaukphyu trong vịnh Bengal đến Vân Nam. Khởi
công xây dựng từ tháng 9-2009, sau khi hoàn tất vào năm 2013, ống dẫn dầu dài
1.200 km có khả năng tải 400.000 thùng dầu/ngày và ống dẫn khí đốt dài hơn
2.800 km sẽ chuyển 12 triệu m3/năm vào tỉnh Vân Nam.
Về thủy
điện, doanh nhân Trung Quốc gần như chiếm độc quyền xây dựng và khai thác các
đập thủy điện trên thượng nguồn các sông Irrawaddy, Salween và Sittang. Cho đến
năm 2007, 45 công ty Trung Quốc làm chủ 65 dự án xây đập thủy điện nhằm chuyển
toàn bộ điện năng sản xuất sang Vân Nam sau khi hoàn tất.
Về kinh
tế, phải chờ đến năm 1998, sau những vụ sạt lở đất lớn trong các tỉnh Quý Châu,
Vân Nam và Quảng Tây do nạn phá rừng bừa bãi gây ra, Bắc Kinh ra lệnh cấm khai
thác gỗ tại mẫu quốc, doanh nhân Trung Quốc liền vượt biên sang Miến Điện và
Lào khai thác gỗ. Ngoài 10 công ty khai thác khoáng sản đang hiện diện tại Miến
Điện, doanh nhân Trung Quốc còn làm chủ 6 công trình khai thác khoáng sản lớn
trong bang Kachin và Shan.
Từ sau
khi được quyền hoạt động trên lãnh thổ Miến Điện, doanh nhân và di dân Trung
Quốc đã ồ ạt vào các thị trấn và thành phố xây nhà, lập phố tạo dựng cơ sở làm
ăn. Trong thành phố, doanh nhân gốc Hoa tìm mọi cách chiếm hữu những địa điểm
có lợi ích kinh tế cao : khu vực trung tâm, các trục lộ giao thông chính, bến
cảng, phi trường, đường bộ, đường sông. Trên vùng đồi núi và đồng bằng, người
Trung Quốc thuê bao những khu đất lớn để khai thác gỗ và trồng cây công nghiệp.
Người Trung Quốc hiện diện mạnh ở Mandalay, Miến Điện |
Doanh
nghiệp Trung Quốc chỉ tuyển công nhân Trung Quốc vào làm việc những công
trường, người địa phương chỉ được tuyển dụng vào những công việc không chuyên
môn và ngắn hạn. Trong những vùng có nhiều tài nguyên quí hiếm (vàng, đá quí,
gỗ mun, voi và thú rừng), hàng ngàn người Trung Quốc xâm nhập bất hợp pháp vào
khai thác, bất chấp sự phản đối của các chính quyền địa phương.
Cho đến
nay, gần như toàn bộ hệ thống buôn bán sỉ và một số ngành bán lẻ (áo quần và
máy móc gia dụng) nằm trong tay người gốc Hoa.
Thêm
vào đó, do thiếu cạnh tranh, doanh nhân Trung Quốc đã gần như độc quyền trong
các ngành xây dựng và kinh doanh địa ốc và gây ra nạn đầu cơ làm giá cả hàng
hóa, xăng dầu và nhà đất gia tăng, khiến các sư sải phải xuống đường chống đối
năm 2007.
Nói tóm
lại, trong sách lược hợp tác để cùng phát triển này, chỉ người Trung Quốc được
quyền hưởng lợi, người Miến Điện quyền phục vụ.
Xung
đột vì nha phiến
Nhìn
lại quan hệ giữa Miến Điện và Trung Quốc từ năm 1988 đến nay, Bắc Kinh đã tận
tình giúp đỡ và bao che chế độ quân phiệt Miến Điện trước búa rìu dư luận quốc
tế. Trung Quốc không những là quốc gia cung cấp vũ khí chính mà còn là quốc gia
tài trợ và đầu tư lớn nhất tại Miến Điện.
Nhưng
sự bao che và giúp đỡ này không miễn phí, ngoài lãi suất thấp và được trả góp
trong một thời gian dài, Bắc Kinh còn muốn khống chế luôn giai cấp cầm quyền và
chiếm hữu toàn bộ những nguồn lợi của quốc gia này.
Mặc dầu
vậy, Bắc Kinh vẫn không tin tưởng vào sự trung thành của các cấp tướng lãnh cầm
quyền, vì đa số được đào tạo trong một môi trường văn hóa Anh, tức môi trường
dân chủ mà Bắc Kinh rất e ngại. Nếu Miến Điện có dân chủ, Trung Quốc sẽ mất vai
trò độc tôn, nguồn vốn khổng lồ bỏ ra có thể sẽ bị mất trắng. Sự nghi ngại càng
tăng khi biết giới quân phiệt Miến Điện đang muốn tách khỏi ảnh hưởng của Bắc
Kinh khi liên lạc với Bắc Triều Tiên để giúp sản xuất vũ khí nguyên tử.
Để làm
áp lực, Bắc Kinh đã phạm một sai lầm lớn khi trang bị vũ khí và lôi kéo những
cộng đồng sắc tộc sinh sống trên vùng biên giới về phía mình. Miến Điện và
Trung Quốc có một đường biên giới dài 2185 km, trải dài trên hai bang Kachin và
Shan.
Đây là
một khu vực rất phức tạp vì là nơi sinh sống của hơn 100 trên tổng số 135 sắc
tộc tạo thành dân tộc Miến Điện.
Cho tới
nay chưa có lực lượng đồng bằng nào làm chủ được khu vực này vì một lý do tất
cả các cộng đồng sắc tộc sinh sống trong vùng này đều được trang bị đủ loại vũ
khi tối tân. Sinh hoạt cổ truyền của các sắc tộc này là nghề làm rẫy, nhưng
sinh hoạt mang lại nhiều lợi tức nhất là khai thác đá quí, trồng cây anh túc
làm thuốc phiện và áp tải những bánh thuốc phiện này xuống đồng bằng.
Để cùng
tồn tại, những nhóm sắc tộc vũ trang này đã kết hợp lại thành một khối để áp
tải thuốc phiện và phân chia quyền lợi lẫn nhau, đây là một kết ước bất thành
văn mà không ai được quyền vi phạm.
Nhắc
lại, từ tháng 10-1949, Quốc Dân Đảng Trung Hoa bị phe cộng sản đánh bật ra khỏi
lãnh thổ, thành phần chủ lực theo Tưởng Giới Thạch ra đảo Đài Loan lập căn cứ,
số còn lại chạy về phía Nam trốn trong những vùng rừng núi giáp ranh với Miến
Điện, Thái Lan và Lào dựng lập chiến khu.
Dân và bộ đội Karen hành quân qua suối |
Được
CIA yểm trợ, tàn quân Quốc Dân Đảng tuyển mộ và huấn luyện các sắc dân thiểu số
chống lại quân cộng sản tại Hoa Lục.
Năm
1965, Rangoon thành lập những đội dân phòng người sắc tộc (Kha Kwe Yei) để cạnh
tranh với những đội áp tải do Quốc Dân Đảng bảo kê. Biện pháp mới này không
ngờ mang lại hiệu quả, các đội dân phòng áp tải thuốc phiện xuống đồng bằng một
cách an toàn và ăn chia sòng phẳng với quân đội.
Cùng
với chiến dịch loại trừ tàn quân Quốc Dân Đảng, Rangoon muốn chiếm luôn địa bàn
sản xuất thuốc phiện bằng cách hạn chế thế lực của các lãnh chúa (sahopa) người
Shan, đồng minh của Quốc Dân Đảng.
Shan là
một sắc tộc lớn gốc Thái, hơn 2,5 triệu người, sinh sống trong thung lũng sông
Salween giữa tỉnh Vân Nam và Thái Lan. Trước biện pháp mới này, người Shan đe
dọa tách khỏi liên bang, Rangoon phải nhượng bộ năm 1958 nhưng đồng thuận quốc
gia đã mất.
Một
tướng người Shan, Sao Gnar Kham, cùng những lãnh chúa Shan khác thành lập quân
đội riêng và tiếp tục quản trị vùng đất rộng lớn miền Đông Bắc và liên kết với
các lực lượng Quốc Dân Đảng, được Bangkok đỡ đầu, chống lại Rangoon.
Làng
Ban Hin Taek, tỉnh Chiang Rai (Thái Lan) trở thành đại bản doanh của quân đội
Shan. Năm 1962, các nhóm võ trang Quốc Dân Đảng và Shan tôn Moh Heng, một người
Hoa tại Kokang, lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Thay vì
chống lại Rangoon, năm 1964 những nhóm này kết hợp lại thành hai đạo quân lớn
tại tỉnh Chieng Mai (Thái Lan) để bảo vệ các vùng canh tác và áp tải thuốc
phiện xuống đồng bằng: Đạo quân thứ 3 do tướng Li Wen Huan chỉ huy, bộ tham mưu
đặt tại làng Feng và Đạo quân thứ 5 do tướng Duan Shi Wen lãnh đạo, bộ chỉ huy
đóng tại làng Mae Salong.
Làng Panwa trong bang Kachin là một nơi từng trồng nhiều thuốc phiện |
Lợi tức
do buôn bán thuốc phiện quá hấp dẫn, những nhóm sắc tộc nhỏ hơn cũng tham gia
phong trào buôn lậu. Năm 1950, Trung Quốc giúp người Kachin thành lập Mặt Trận
Nhân Dân, trang bị hơn 6.000 tay súng chống lại tàn quân Quốc Dân Đảng. Bắc Kinh
bị hố to, với số lượng vũ khí có được, các nhóm vũ trang Kachin hợp tác với
Quốc Dân Đảng sản xuất và áp tải thuốc phiện.
Những
nhóm nhỏ hơn như người Pao (200.000 dân), người Wa (500.000 dân), người Paluang
(200.000 dân), người Lahu (100.000 dân) cũng được Trung Quốc trang bị vũ khí và
tất cả đều trở mặt theo Quốc dân Đảng và người Shan để được chia phần.
Thủ
lãnh Sao Gnar Kham bị Quốc Dân Đảng ám sát tại Thái Lan năm 1964 sau một vụ
chia chác không đồng đều. Năm 1966, Moh Heng rời lực lượng võ trang Shan để
thành lập lực lượng cách mạng thống nhất dưới quyền điều động của Đạo quân thứ
3 của tướng Li Wen Huan ; Lo Hsing Han dẫn lực lượng Kokang theo Đạo quân thứ 5
phò tướng Duan Shi Wen (Lo Hsing Han sản xuất heroin 999 tinh chất nhất Đông
Nam Á); những chiến sĩ trẻ can đảm rủ người Lahu phục vụ tướng Naw Seng vùng
Đông Bắc.
Từ năm
1973, Khun Sa, tên thật là Lo Chang, là một người Shan gốc Hoa (tên Chang Chi
Fu -Trương Kỳ Phu) tại Kokang, trở thành nhân vật lãnh đạo Khu Tam Giác Vàng.
Khun là một tước vị quí tộc nhỏ của người Thái, Sa là ông Trùm; người Shan gọi
ông là Sao Mong Khawn, người Miến là Khun Yo, và đặt tên tổ chức mới của ông
thành Lực lượng Thống nhất Shan" (SUA) cho có vẻ dân tộc.
Năm
1982, Khun Sa rút qua Miến Điện, kết hợp với các nhóm võ trang Kachin và đảng
cộng sản Miến (cả hai lực lượng này cung cấp 70% lượng thuốc phiện tại Miến)
phòng thủ lãnh địa mới và mở rộng địa bàn sản xuất sang Lào do người Hmong phụ
trách. Năm 1984, tất cả các tổ chức lớn nhỏ liên quan đến việc buôn bán hay áp
tải thuốc phiện trong khu Tam Giác Vàng đều đặt dưới quyền của Khun Sa.
Phản
ứng lại Trung Quốc
Năm
1989, tướng Khin Nyunt của Miến Điện đã thành công trong việc kêu gọi 17 nhóm
sắc tộc vũ trang ký thỏa ước đình chiến. Bù lại, những nhóm sắc tộc này được
quyền "tự do hoạt động kinh tế" (trồng và áp tải thuốc phiện) như
trước.
"Chính quyền quân phiệt Miến Điện khám phá Trung Quốc đang tái vũ trang những nhóm sắc tộc gốc Hoa"
Sự
"bình yên" giữa giới buôn bán thuốc phiện và giới quân phiệt Miến
Điện chấm dứt khi đầu thập niên 1990, chính quyền Vân Nam nhảy vào cuộc và kêu
gọi thành lập Khu Kinh Tế Tứ Giác (Quadrangle Economic Zone), quanh bốn thành
phố chính : Côn Minh (Vân Nam), Kengtung (tiểu bang Shan, Miến Điện), Chiang
Mai (Thái Lan) và Luang Prabang (Lào), để cạnh tranh với các nhóm vũ trang
địa phương của Miến Điện.
Sự
"cạnh tranh bất chính" này xâm phạm đến quyền lợi của giới quân phiệt
Miến Điện. Cũng nên biết, mặc dù cấm buôn bán và vận chuyển thuốc phiện trên
toàn lãnh thổ, các nhóm quân phiệt địa phương đã làm ngơ cho các nhóm sắc tộc
chuyển hàng xuống vùng biển bằng cách đóng tiền mãi lộ, rất cao, khi đi ngang
qua các trạm kiểm soát.
Để cảnh
cáo phía Trung Quốc, năm 2004, tướng Khin Nyunt, nhân vật số ba của chính quyền
quân phiệt, bị bắt về tội bán đứng quyền lợi quốc gia cho Trung Quốc. Những
hoạt động mờ ám của doanh nhân Trung Quốc đang được chính quyền quân phiệt đưa
dần ra ánh sáng.
Chẳng
hạn như vụ đập Myitsone, Trung Quốc đã giao cho công ty Asia World Company - mà
giám đốc không ai khác hơn là Tun Myint Naing (Steven Law), con trai của ông
trùm Khun Sa - quyền vận chuyển "vật tư", thật ra là thuốc phiện,
vàng và đá quí sản xuất trong tiểu bang Kachin, từ Miến Điện sang Vân Nam bằng
voi (hơn 100 con).
TS Nguyễn Văn Huy hỏi Việt Nam sẽ học được gì từ kinh nghiệm Miến Điện |
Sự bất
mãn đối với Bắc Kinh càng gia tăng khi, năm 2009, chính quyền quân phiệt khám
phá Trung Quốc đang tái vũ trang những nhóm sắc tộc gốc Hoa, đặc biệt là người
Pao, người Wa và người Kokang, sinh sống dọc vùng biên giới, mà mục tiêu không
gì khác hơn là làm suy yếu quyền lực của chính quyền trung ương.
Thêm
vào đó, dọc các trục lộ xuyên biên giới Vân Nam-Miến Điện, nhà cửa, hàng quán,
sòng bạc và khách sạn của người Hoa mọc lên như nấm để thu hút nguồn lợi tức do
những nhóm áp tải thuốc phiện có được. Doanh nhân Trung Quốc đến Miến Điện để
đầu tư và khai thác tài nguyên thiên nhiên của Miến Điện để mang về nước, bất
chấp môi sinh, môi trường và đời sống của người địa phương.
Không
người Miến nào nắm chức vụ cao trong các công ty của Trung Quốc, toàn bộ lực
lượng nhân công của các công ty Trung Quốc đều đến từ Trung Quốc. Khi hết hạn
làm việc, tất cả đều tìm cách ở lại để buôn bán và đang là một đe dọa cho sinh
hoạt kinh tế của Miến Điện.
Miến
Điện đang biến thành thuộc địa của chính sách thực dân mới của Trung Quốc. Phản
ứng của chính quyền Miến Điện tuy có muộn nhưng vẫn còn có thể cứu vãn được nếu
hạn chế được sự lạm quyền của doanh nhân Trung Quốc. Nhóm quân phiệt Miến Điện
tuy có độc tài nhưng vẫn còn nghĩ đến quyền lợi quốc gia. Tổng thống Thein Sein
có lẽ sẽ là Gorbachev của Miến Điện.
Trường
hợp Miến Điện rất đáng để chính quyền cộng sản Việt Nam suy ngẫm. Việt Nam cần
làm gì khi người Trung Quốc đang thao túng sinh hoạt chính trị và kinh tế của
đất nước, đó là chưa kể đã khống chế những địa điểm phòng thủ chiến lược vùng
Tây Bắc và trên Tây Nguyên.
"Câu trả
lời nên nhường cho những đảng viên còn yêu nước"
Nhà nghiên cứu dân tộc học ở Paris