“Người Đưa Tay Chạm Vào Anh.” (Lc 3:12)
Lòng Trắc Ẩn
Bạn hẳn đã
có một lần đi “làm từ thiện”.
Sau trận
bảo lụt, cửa nhà xơ xác, đồng ruộng điêu tàn. Thiệt hại không chỉ tính bằng số
tiền tỉ. Nỗi kinh hoàng, đau đớn, giận dữ, như thấy hiện rõ trong ánh mắt những
nạn nhân, sẽ còn in hằn thật sâu, cắt cứa rướm máu trong lòng họ, trở đi trở
lại như những cơn ác mộng trong giấc ngủ của họ. Tình trạng còn bi đát hơn nữa
nếu nạn nhân là một em bé mất cha hay mẹ dưới dòng nước lũ hung ác. Giữa cơn
khốn cùng ấy, được chia sẻ miếng cơm manh áo thật không còn gì ý nghĩa hơn,
thắm thiết tình người hơn.
Có người
gởi tiền, hiện vật để các cơ quan cứu trợ phân phối cho nạn nhân. Có người đích
thân mang vật phẩm cứu trợ trao tận tay đồng bào gặp nạn.
Có người
sau khi đã trao quà cứu trợ vội vã trở về thành phố vì còn bận bao công việc
làm ăn, lo sinh kế cho gia đình mình. Có người nán lại lâu hơn thăm hỏi, an ủi,
động viên các nạn nhân.
Có người
mang cung cách ban phát của “bề trên”, của thái độ “ân nhân”, hạ cố trên những
mảng đời đáng thương, đáng tội. Có người xà xuống mái tranh xiêu vẹo, chui vào
tấm ny-lông rách che tạm nắng mưa, ngồi bệt trên mấy mảnh giấy các-tông bê bết
bùn thay cho bàn ghế đã bị nước lũ cuốn trôi, ân cần lắng nghe nạn nhân đọc
“bài kinh cầu” của một chuỗi những mất mát, những nỗi đau xé lòng. Sẵn có mì
gói, ta đun nước, làm gấp mấy tô, rồi cùng nhau chia sẻ bữa trưa tại hiện
trường.
Con người
có khả năng cảm nhận rất bén nhạy về lòng trắc ẩn, đặc biệt nếu bạn là nạn nhân
của mọi hình thức đau khổ, thua thiệt, mất mát, bất công, đàn áp.
Đúng như
cổ nhân đã dạy: “Cách cho quan trọng hơn của cho”. Quà tặng sẽ vô cùng ý nghĩa
khi được bọc gói bằng thái độ trân trọng phẩm giá người nhận. Món quà vô giá
bạn có thể chia sẻ với người đồng loại đang lâm cảnh cơ nhỡ, khốn cùng chính là
lòng trắc ẩn chân thành, không chút màu mè, son phấn. Nhiều trường hợp, người
bần cùng, người đau khổ, người tuyệt vọng, người mất hết lý do sống trên đời để
khao khát, mong đợi một món quà nào đó, khác với bất kỳ những gì người trao
tặng nghĩ là sẽ xoa dịu, sẽ thỏa mãn được người đón nhận. Người què bẩm sinh
ngồi xin ăn ở Cửa Đẹp Đền Thờ thường xuyên nhận được những đồng bạc bố thí từ
khách thập phương. Anh có thể sống lây
lất qua ngày. Mọi người thương hại cho tình trạng tật nguyền của anh, song họ
nghĩ anh được như thế cũng kể là phúc lớn—không đến nỗi chết đói. Có ai đồng cảm được những miếng cơm nghẹn
đắng nuốt không trôi trong nước mắt tủi nhục hay không? Vì đâu có ai ngày nầy
qua ngày khác phải cắn răng ngửa tay đón từng đồng xu cắc bạc, người ta ném cho
anh trong khi vội vã bước lẹ qua như để tránh bịnh cùi hủi hoặc dịch tễ lây
lan. Anh phải nhặt những đồng tiền của
lòng thương hại đó vì không còn lựa chọn nào khác. Nhưng cũng do đó mà cái khối
u uất, giận dữ, thù ghét—giận dữ, thù ghét những kẻ anh nghĩ là sung sướng khi khai
thác tình trạng tật nguyền, đau khổ của anh để lập thêm công đức, tích lũy phước
lành, kể cả giận dữ và thù ghét chính bản thân bất hạnh, bất tài, bất tướng của
mình, thù ghét ghê gớm, không thể tha thứ vì tự mình đã để cho lòng tự trọng
chết dần chết mòn—cái khối đó cứ lớn lên dần, cứ nặng nề thêm dần cho đến một
mức độ không còn chịu đựng nổi.
May cho quãng đời còn lại của anh.
“Một hôm ông Phê-rô và ông Gio-an lên Đền
Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín.
Khi ấy, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày
họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí. Vừa
thấy ông Phê-rô và ông Gio-an sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. Ông Phê-rô
cùng với ông Gio-an nhìn thẳng vào anh mà nói:“Anh nhìn chúng tôi đây!” Anh ta
chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. Bấy giờ ông Phê-rô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái
tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh hãy
đứng dậy mà đi!” Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở
nên cứng cáp. Anh đứng phắt lên, đi lại được; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền
Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa” (Công Vụ 3:1-8).
Tất nhiên
món quà hai vị tông đồ của Chúa trao cho anh cực kỳ quý giá, hơn cả ngàn vạn
kho vàng bạc châu báu, hơn cả mọi ước mơ. Đây mới thật sự là món quà anh
cầu khấn đêm ngày và cuối cùng đã được chấp thuận. Anh muốn được trả lại điều,
vẫn luôn là mơ ước bình dị của mọi người: có đủ sức khỏe để tự mình lo cho
mình, để không làm phiền ai, để được đi trên đôi chân của mình, để làm việc mà
nuôi sống bản thân và gia đình, chứ không chỉ sống lệ thuộc vào lòng từ tâm của
bá tánh thiên hạ. Điều thứ đến còn quan
trọng hơn nữa: qua kinh nghiệm đau khổ, bịnh tật, qua mọi cuộc chạm trán nẩy lửa
với cuộc đời muôn mặt, anh nhận ra những bất toàn, bất trắc, giả trá, phù du
của con người và cõi trần hữu hạn nầy. Ước mơ những lý tưởng cao đẹp, khát vọng
những giá trị trường cửu vẫn cứ cháy bỏng, vẫn sôi sục trong cõi lòng con
người, song sẽ chẳng mấy hy vọng được thành sự thật, được thỏa mãn trọn
vẹn. Rất nhiều lần và nhiều trường hợp,
con người được giới thiệu các bộ dạng cứu nhân độ thế danh tiếng, các phương án
kinh bang tế thế đầy ấn tượng. Nhưng rốt cuộc đó chỉ là những ngôn sứ giả hiệu,
những phương án lừa đảo, những toa độc dược cùng chung một tác dụng: mau chóng
đưa con người xuống nấm mồ của hủy diệt, của tiêu vong. Vậy thì chỉ có Chúa
Ki-tô, Đấng là Thần Y, là Cứu Tinh, là Phục Sinh, là Thiên Chúa, mới phục hồi
toàn diện con người, mới trả con người trở lại địa vị và phẩm giá nguyên bản
như Thiên Chúa đã ban cho từ khởi thủy. Anh tạ ơn Chúa, lòng tri ân vì được hội
nhập trở lại vào công đoàn nhân loại, được cùng mọi người chung tay góp sức
phục vụ công ích, không còn buộc phải ngồi bên lề cuộc đời như một kẻ ngoại
cuộc, như một phế vật thừa thải, vô dụng. Anh tạ ơn Chúa vì nay anh có thể
ngẩng cao đầu bước đi trong niềm vui sống, trong hy vọng một tương lai tươi
sáng hơn, trong xác tín mạnh mẽ rằng mình có đủ phẩm giá và vinh dự là con
người và là con Thiên Chúa. Anh có quyền để “vừa đi, vừa nhảy múa” như thế suốt
cuộc hành trình.
Lòng Trắc Ẩn Của Chúa Ki-tô
Người què
bẩm sinh đã được phục hồi sức khỏe. Hơn thế nữa, anh còn được trả lại phẩm giá
của một con người, được hòa nhập trở lại vào đời sống cộng đoàn, được giải
thoát khỏi mọi gông cùm mặc cảm, ức chế, được gặp lại niềm vui chúc tụng Thiên
Chúa, Đấng nhân từ và thương yêu tất cả mọi người.
Đó là nhờ
“Danh Chúa Giê-su Ki-tô.”
Chúa
Giê-su Ki-tô là Lòng Trắc Ẩn Của Thiên Chúa.
Đến với
một nhân loại bị tàn phế, mù lòa, bại liệt, lở loét, hấp hối vì hậu quả tội
lỗi, Chúa Ki-tô lập tức lăn xả vào để cứu giúp họ.
Chúa không
là người “làm từ thiện”, ban phát quà cứu trợ, thăm hỏi qua loa rồi ra đi, để
lại nạn nhân ngày đêm quay quắt với những khổ đau, khốn cùng của họ.
Trái lại,
Chúa tình nguyện “làm nạn nhân”, cùng với họ gánh chịu khổ đau, khốn cực. “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện
cũng như ta” (Thư Do Thái 4:15). Khi đón nhận bản tính con người, Chúa tôn
trọng “luật chơi”, rất sòng phẳng, không đi tắt, không cắt xén, không xin miễn
trừ, nhưng chấp nhận mọi điều kiện làm người.
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không nghĩ phải nhứt quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống
như người trần thế” (Thư Phi-líp-phê 2:6-7).
Là Lương Y
nhà trời giáng trần cứu vớt sinh linh lầm than, đau khổ vì các tật bịnh lây lan
nguy hiểm chết người do tội lỗi gây nên, Chúa không giữ bất kỳ khoảng cách an
toàn nào, cũng chẳng mang đồ bảo hộ tối thiểu như khẩu trang, như găng tay. Ai
đang làm việc trong ngành y tế, trong các bịnh viện phải thường xuyên tiếp xúc
với nguy cơ nhiễm bịnh, đều biết phải hết sức thận trọng tuân thủ mọi biện pháp
phòng ngừa như thế nào. Nhưng ai đã từng một lần phải vào bịnh viện để được
điều trị hẳn còn nhớ cái cảm giác đau đớn, tủi thân, nhục nhã khi các bác sĩ, y
tá không che dấu nỗi sợ hãi, ái ngại mỗi lúc họ vì bổn phận phải đụng chạm đến
mình. Không có lý do để nghi ngờ họ là những thầy thuốc giỏi và tốt bụng. Nhưng
vẫn có khoảng cách cần thiết giữa vị lương y và người mang bịnh tật.
Chúa Ki-tô
đến gặp bịnh nhân với bàn tay trần, Người chạm vào họ, vào tật nguyền, vào vết
thương mưng mủ của họ để xoa dịu, để chữa trị nỗi khổ đau của họ. Làm như vậy, Chúa
bất chấp thành kiến, tập tục vốn cách ly người bịnh ra khỏi cộng đoàn. Làm như
vậy Chúa phá vỡ các luật lệ bất công coi người binh tật, người tội lỗi như phế
vật, như gánh nặng gia đình và xã hội phải cực chẳng đã mang vác. Làm như vậy
Người muốn lớn tiếng khẳng định rắng: người bịnh, người tội lỗi phải được đón
nhận, chăm sóc, giúp đỡ, với tất cả lòng thương yêu và kính trọng, xứng đáng
với nhân phẩm, nhân vị của họ.
Thánh Kinh
tiết lộ:
“Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và
gánh lấy các bịnh hoạn của ta” (Mát-thêu 8:17).
Có nghĩa
là Chúa chẳng phải như một bác sĩ chữa bịnh căn cứ theo kiến thức đã được học
hỏi ở trường y dược, nhưng Người đụng chạm đến vết thương nhân loại với cảm
nghiệm đau đớn của chính vết thương trong chính thân xác, trong chính cõi lòng
của Người. Người bịnh bám víu lấy đôi tay của Vị Lương Y đầy trắc ẩn, như bám
lấy chiếc phao cứu sinh, bám lấy hy vọng cuối cùng, bám lấy một tấm lòng nhân
ái, để trút hết nỗi lòng, trút hết nỗi thống khổ của tật bịnh, của gánh nặng
tâm linh, vì gặp được một người hết sức tử tế, nhẫn nại lắng nghe. Thời gian cứ
thế trôi qua, họ chợt thấy như gánh nặng tật nguyền, gánh nặng tâm linh vơi
dần, vơi dần và biến mất. Bởi lẽ tất cả tật nguyền của họ đã có Chúa gánh
thay.
Chẳng
những thế, nỗi đau của Chúa lại còn cắt cứa hơn trăm ngàn lần, vì Người biết rõ
hơn bịnh nhân nguyên nhân bịnh tật của họ, hậu quả thảm khốc, vô phương cứu
chữa của chứng bịnh hiểm nghèo họ đang gánh chịu. Cha mẹ hẳn đau khổ gấp trăm
ngàn lần khi chứng kiến đứa con bé bỏng của mình đang chết dần từng ngày vì cơn
bịnh ung thư máu giai đoạn cuối. Nhưng vì cháu bé cứ hồn nhiên vô tư vui đùa,
tíu tít với cha mẹ về bao ước mơ tương lai, nên nỗi đau đớn lại càng trở thành
không thể chịu đựng nỗi trong lòng người cha, người mẹ.
Chúa Ki-tô
biết rõ căn gốc của đau khổ tật nguyền nhân loại đang gánh chịu là do tội lỗi. Thứ
siêu vi nầy không có bất kỳ phương pháp trị liệu nào hay lương y danh tiếng nào
tiêu diệt nổi. Hậu quả tất yếu là con người phải chết.
Nhưng Chúa
cũng biết rõ Người sẽ phải làm gì để bằng mọi giá cứu sống nhân loại, kể cả với
giá sinh mạng của chính Người.
Và Chúa đã
chấp nhận sứ vụ cao cả đó khi Người đến với một nhân loại đầy thương tật, lăn
lộn trong cùng cực đau đớn, trong cơn hấp hối vô vọng, để giang rộng đôi tay
dịu dàng ôm lấy họ vào lòng, tận tình lau rửa, băng bó, phục thuốc, và bằng mọi
cách giựt họ ra khỏi lưỡi hái tử thần.
Linh Mục P.X. Nguyễn Văn Nhứt, O.P.