Đan Quang Tâm
Chúng ta không được bỏ qua hình thức đặc biệt của cái nghèo bao
gồm việc bị tước đoạt các quyền căn bản của con người, cách riêng là quyền tự
do tôn giáo và quyền tự do có sáng kiến kinh tế” (CA, 42).
Đức Gioan Phaolô II rất hay bàn về tự do. Trong lĩnh vực này, ngài
cũng được mệnh danh là nhà quán quân. Tự do là chủ đề trung tâm của ngài từ khi
còn là giáo sư luân lý tại Đại học Lublin và ngay cả khi đã làm giáo hoàng. Ở
đây chúng ta giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tìm hiểu xem ngài đã luận bàn thế
nào về tự do kinh tế.
Đức Gioan Phaolô II bàn về tự do kinh tế
Năm 1987, trong Thông điệp xã hội Sollicitudo Rei Socialis kỷ niệm 20 năm Thông điệp Populorum
Progressio, ngài viết: “Chúng ta không được bỏ qua hình thức đặc
biệt của cái nghèo bao gồm việc bị tước đoạt các quyền căn bản của con người,
cách riêng là quyền tự do tôn giáo
và quyền tự do có sáng kiến kinh tế”
(42).
Đây là hai nhân quyền cơ bản mà ngài luôn kiên quyết bảo vệ, ủng
hộ và đề cao. Khi còn là giám mục trẻ tham dự đủ bốn kỳ họp Công đồng Vatican
II, ngài đã tích cực tham gia góp ý cho dự thảo Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo và
nhiều lần khẳng định “Không có tự do nếu không có sự thật”. Nhà quán quân
về tự do tôn giáo Gioan Phaolô II
đã để lại một bộ giáo huấn phong phú về sự liên kết nội tại giữa tự do và sự
thật, là chìa khóa mở ra giúp ta hiểu ý định sâu xa của Tuyên ngôn Dignitatis Humanae. Ngoài ra, ngài còn
có đóng góp vào từ điển thần học thuật ngữ “quyền tự do có sáng kiến kinh tế”. Đây
cũng là đóng góp và bổ sung của ngài vào từ vựng nhân quyền khi ngài ban hành
Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis nói trên. Bản
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của
Liện hiệp quốc đã không đề cập đến quyền con người này.
Bốn năm sau, ngài viết tiếp một thông điệp xã hội Centesimus
Annus, lần này để kỷ niệm 100 năm ngày ban hành Thông điệp Rerum Novarum. Ngài nhắc lại những điểm
chính của thông điệp xã hội đầu tiên này: con người phải được tôn trọng vì con
người là hình ảnh của Thiên Chúa và được Người ban sự sống. Ngài nhận định việc
bỏ qua sự kiện này đã dẫn đến cảnh đối xử tàn bạo với người lao động vào thời
Đức Lêô XIII, rồi hai cuộc thế chiến, lò hơi ngạt, các chế độ độc tài tại
phương Đông, hố ngăn cách giàu nghèo. Chủ nghĩa công sản vô thần đã giải thể vì
không tôn trọng phẩm giá và các quyền đi kèm với phẩm giá ấy của con người. Con
người được ban tặng tự do, nhưng do vết thương nguyên tội nên dù có hướng thiện
nhưng vẫn còn có khả năng làm điều ác:
“Hơn nữa, con người, được tạo dựng để hưởng tự do, mang nơi bản
thân mình vết thương nguyên tội, thường xuyên lôi kéo con người hướng về điều
ác, vì thế con người cần đến ơn cứu độ. Không những giáo thuyết này là
một bộ phận hợp thành của mạc khải Kitô giáo, mà còn có giá trị thông diễn
(hermeneutical value) lớn lao giúp ta hiểu được thực tại con người. Con người
hướng đến điều thiện, nhưng cũng có thể làm điều ác. Con người có thể vượt lên
trên lợi lộc trước mắt, mà vẫn gắn bó với nó” (42).
Ngài cảnh báo sự đàn áp quyền tư hữu sẽ “làm cạn kiệt nguồn sáng
kiến và sáng tạo” (trong đó có sáng kiến kinh tế) và xuất hiện nguy cơ biến
chính trị trở thành một thứ “tôn giáo thế tục”:
“Trật tự xã hội càng được ổn định, thì càng lưu ý đến sự kiện này,
và không đặt quyền lợi cá nhân đối nghịch với quyền lợi của xã hội xét như một
tổng thể, nhưng đúng hơn, tìm cách hòa hợp với quyền lợi xã hội một cách hiệu
quả. Thật vậy, nơi đâu quyền lợi cá nhân bị xã hội tước đoạt, thì thay vào đó
là một chế độ cồng kềnh nắm quyền kiểm soát một cách quan liêu, làm cạn kiệt
nguồn sáng kiến và sáng tạo. Khi người ta nghĩ rằng mình nắm được bí quyết tổ
chức một xã hội hoàn hảo không còn điều ác thì họ cũng tưởng là có thể sử dụng
mọi phương tiện, kể cả bạo lực và lừa dối, để thực hiện tổ chức đó. Khi ấy
chính trị trở thành một thứ “tôn giáo thế tục”, có tham vọng xây dựng thiên
đàng ngay ở trần gian này. Nhưng không có một xã hội chính trị nào có quyền tự quyết
và pháp luật của xã hội đó có thể lẫn lộn với Vương
Quốc của Thiên Chúa” (25).
Đức Gioan Phaolô ủng hộ có điều kiện nền kinh tế thị trường được
xây dựng trên tự do, khuyến khích phát huy tự do có sáng kiến trong kinh tế,
chủ trương quyền lợi cá nhân hài hòa với quyền lợi xã hội.
“Theo chiều hướng này, người ta có lý để nói về một cuộc đấu tranh
chống lại một hệ thống kinh tế, được
hiểu là một phương pháp để đảm bảo ưu thế tuyệt đối của tư bản, việc chiếm hữu
các tư liệu sản xuất và đất đai, hơn là tự do và phẩm giá lao động của con người. Khi chiến đấu chống lại hệ thống này, người ta không
thể đề ra đối nghịch nó, như một kiểu mẫu thay thế, hệ thống chủ nghĩa xã hội,
vì hệ thống này thực ra cũng là một thứ chủ nghĩa tư bản Nhà nước, nhưng người
ta có thể đề ra đối nghịch nó với xã hội của tự do lao động, kinh doanh và được
tham dự. Xã hội này không đối nghịch với thị trường, nhưng đòi hỏi thị trường
phải được kiểm soát một cách hợp lý bởi những sức mạnh xã hội và bởi Nhà nước,
sao cho bảo đảm được sự thỏa mãn các nhu cầu căn bản của toàn xã hội” (CA, 35).
Ngài nói hai nhân tố quyết định cho sự sụp đổ của các chế độ áp
bức là “sự vi phạm đối với quyền của các công nhân” và “sự vi phạm các quyền
con người có sáng kiến riêng, được sở hữu tài sản và tự do trong lĩnh vực
kinh tế” (CA, 23, 24).
Tóm
lại, Đức Gioan Phaolô II xem tự do kinh tế là nền tảng của kinh tế doanh nghiệp
hiện đại (SRS, 32). Ngài tái khẳng định Giáo hội quyết tâm dấn thân cho tự do,
xem đó như một điều kiện cần thiết để bảo đảm “phẩm
giá siêu việt của con người” (CA, 46). Tuy nhiên, ngài nhận rằng tự do trong
kinh tế không tuyệt đối, đó chỉ là một nhân tố trong tự do của con người. Khi
đời sống kinh tế trở nên tuyệt đối hóa, nghĩa là khi con người được xem là
người sản xuất hoặc tiêu thụ hàng hóa hơn là một chủ thể sản xuất và tiêu thụ
để sống, thì tự do mất đi tương quan cần thiết của nó đối với nhân vị và rút
cục tha hóa và áp bức con người (CA, 39).
Quyền tự do có sáng kiến kinh tế
Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo
hội (sách TLHTXH) mô tả hoạt động kinh tế “như một lời đáp lại với
tấm lòng tri ân ơn gọi mà Thiên Chúa chìa ra cho mỗi người” (326). Điều này
giúp xua tan khái niệm sai lầm là các ơn gọi “chân chính” chỉ được tìm thấy
trong giáo dục, y tế, hoạt động bác ái hoặc ở hẳn bên trong Giáo hội. Doanh
nhân Công giáo nếu giang tay đón nhận ơn gọi “đặt hoạt động kinh tế và sự
tăng trưởng vật chất phục vụ con người và xã hội”, để rồi “xả thân làm các việc ấy với lòng tin, cậy, mến
của các môn đệ Đức Kitô” thì doanh nghiệp và môi trường kinh tế “cũng có thể
biến thành những địa điểm cứu độ và thánh hoá” (326).
Sách TLHTXH nhấn mạnh: “Học thuyết xã hội của Giáo Hội
coi tự do của con người trong các vấn đề kinh tế là một giá trị căn bản và là
một quyền bất khả chuyển nhượng cần phát huy và bảo vệ”. Sách khẳng định và kêu gọi:“Mọi người
có quyền có sáng kiến về kinh tế, mọi người nên sử dụng hợp pháp các tài
năng của mình, để góp phần làm ra nhiều của cải cho mọi người được hưởng, và để
thu lượm những hoa trái chính đáng do các nỗ lực của mình” (336). Điều
này xây dựng trên những phát biểu tương tự trong các giáo huấn của đức
Giáo hoàng Piô XII cũng như những câu phát biểu trong thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (1988) và Centesimus Annus (1991).
Nhưng sách TLHTXH cũng nói thêm rằng giáo huấn này nhắc ta về “các
hậu quả tiêu cực có thể phát sinh do việc làm suy yếu hay chối bỏ quyền có
sáng kiến về kinh tế” và bảo ta “sáng kiến tự do và có trách nhiệm trong
lĩnh vực kinh tế cũng có thể được định nghĩa là một hành vi phản ánh nhân tính
của con người với tư cách là những chủ thể sáng tạo và có tương quan. Thế nên,
cần trao cho quyền có sáng kiến đó không gian hoạt động rộng lớn. Nhà
Nước có nghĩa vụ luân lý áp dụng những giới hạn nghiêm ngặt chỉ trong những
trường hợp không tương thích giữa việc theo đuổi công ích và loại hình hoạt
động kinh tế được đề xuất hoặc phương thức tiến hành hoạt động kinh tế đó”
(336).
Đáng lưu ý, sách TLHTXH áp dụng những chủ đề này trực tiếp đối với
chủ doanh nghiệp và những người quản lý doanh nghiệp. “Sáng kiến kinh tế là
một thuật ngữ về trí thông minh con người và về sự cần thiết phải đáp ứng các
nhu cầu của con người một cách sáng tạo và hợp tác” (343).
Trên cơ sở này, sách TLHTXH mô tả tinh thần doanh nghiệp không chỉ
là một “đức tính cá nhân” mà còn là một “đức tính xã hội” bởi vì có tinh thần
doanh nghiệp nghĩa là “cùng nhau tìm kiếm những giải pháp thích đáng nhất để
đáp ứng tốt nhất các nhu cầu nảy sinh” (343).
Sách TLHTXH nhận định rằng “Vai trò của các chủ doanh nghiệp và lãnh
đạo doanh nghiệp có tầm quan trọng trung tâm nhìn từ quan điểm xã hội, vì họ ở
ngay tại trung tâm của cả một hệ thống các quan hệ kỹ thuật, thương mại, tài
chính và văn hoá là đặc trưng cho thực tại doanh nghiệp hiện đại” (344).
Doanh nhân, như vậy có một vai trò quan trọng, chính yếu trong đời
sống kinh tế và có cả một ơn gọi hẳn hòi. Họ cũng được gọi để làm vườn nho của
Thiên Chúa. Thiên Chúa thì luôn luôn có sáng kiến đi trước một bước. Chúa Giêsu
không những gọi, mà còn chọn họ: “Không phải các con đã chọn Thầy mà Thầy đã
chọn các con trước”.
Hội đồng Giáo hoàng Công Lý và Hòa bình không những biên soạn sách
TLHTXH để hướng dẫn doanh nhân qua những nguyên tắc và những định hướng như đã
nói trên mà còn tìm cách soạn cẩm nang doanh nghiệp giúp các doanh nhân Công
giáo sống đạo trong môi trường doanh nghiệp theo tinh thần của Hiến chế Vui mừng và Hy vọng khắc phục được tình
trạng phân rẽ giữa đạo và đời (GS, 13) và làm các quyết định kinh doanh theo đúng
các nguyên tắc của giáo huấn xã hội.
Trong đường hướng đó, Hội đồng Giáo hoàng Công Lý và Hòa bình đã
phối hợp với John A. Ryan Institute, một viện nghiên cứu và phổ biến giáo huấn
xã hội thuộc Đại học St. Thomas Hoa Kỳ để biên soạn tài liệu “Ơn gọi Lãnh đạo Doanh
nghiệp” (Vocation of the Business Leader) và tố chức một hội nghị quy tụ
khoảng 2.000 chủ doanh nghiệp vào tháng 3 năm 2112 tại Lyon, Pháp để phổ biến
và thảo luận tài liệu này.
Không còn
nghi ngờ gì nữa, nói theo ngôn ngữ tiếng Anh, được xem là ngôn ngữ thương mại
và kinh doanh, thì “The Church takes business
seriously”.