Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
Lời mở
Công đồng Vaticanô II (1962-1965) đã cổ vũ việc đối thoại đại kết để hợp nhất toàn thể các Kitô hữu qua Sắc lệnh Unitatis Redintegratio (HN) ban hành ngày 21-11-1964 và mở ra Tuần lễ “Cầu nguyện cho sự hiệp nhất” hằng năm từ 18-1 đến 25-1. Thượng Hội đồng Giám mục XIII vào tháng 10-2012 tại Rôma cũng đã nhắc nhở chúng ta về việc đối thoại đại kết này ở các số 72 và 125 của Tài Liệu Làm Việc (TLLV).
Tại Việt Nam cũng như ở nhiều nơi trên thế giới, người ta thấy có những cuộc tranh luận gay gắt về một số khác biệt giữa Công giáo và các hệ phái Kitô giáo khác, nhất là về vấn nạn “Anh chị em ruột của Đức Giêsu Kitô”: “Thật vậy, tất cả đều xưng mình là môn đệ của Chúa Kitô nhưng lại cảm nghĩ và đi theo những đường lối khác nhau như thể chính Chúa Kitô bị phân rẽ vậy (x.1Cr 1,3). Quả thực sự phân rẽ này hiển nhiên vừa trái ngược với ý muốn của Chúa Kitô vừa là gương xấu cho thế giới và phương hại cho công cuộc rất thánh thiện là rao giảng Phúc Âm cho mọi thụ tạo” (CĐ.Vat. II, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, số 1) (THĐGM, TLLV, số 125).
Trong tinh thần đối thoại để đóng góp vào công cuộc hợp nhất Kitô hữu, chúng tôi giới thiệu câu giải đáp cho vấn đề gây tranh cãi này theo sự khích lệ của THĐGM: “phải tiếp tục có những cố gắng một cách thuyết phục để chứng tỏ mọi Kitô hữu đều hợp nhất trong việc chỉ cho thế giới thấy sức mạnh tiên tri và biến đổi của sứ điệp Phúc Âm” (TLLV, số 72).
Bài này được trình bày gồm các phần chính sau đây:
1. Vấn đề anh chị em ruột của Đức Giêsu Kitô
2. Câu trả lời từ phía Giáo Hội Công Giáo
1. Vấn nạn về anh chị em ruột của Chúa Giêsu phát sinh từ đâu?
1.1. Xác định thời điểm vấn nạn
Khi nói vấn nạn này là một trong những chủ đề gây tranh cãi giữa tín hữu của Công giáo và các giáo phái Tin Lành thì có lẽ chưa chính xác cho lắm. Đây chỉ là vấn đề mới phát sinh trong một hai thế kỷ gần đây, khi các sách Thánh Kinh toàn tập được in ấn và phổ biến cho quảng đại quần chúng, nhờ đó tín hữu các bên có thể đọc và so sánh các đoạn văn Thánh Kinh với nhau.
Chúng ta biết vào thời khai sáng ra các hệ phái Tin lành với Martin Luther (10/11/1483-18/2/1546) và John Calvin (10/7/1509-27/5/1564), người ta chưa biết đến vấn nạn này. Các tín hữu vẫn rất tôn kính Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa. Trong “95 luận đề phản chứng” của M. Luther niêm yết ngày 31-10-1515 tại cửa Thánh đường Castle ở Wittenberg, nước Đức, cũng như trong cuốn Nguyên lý Cơ đốc giáo của J.Calvin năm 1536, chúng ta không thấy kể tên vấn nạn này.
Chỉ khi các nhà nghiên cứu Thánh Kinh Tin Lành và Công giáo so sánh các bản văn Tân Ước nói đến anh chị em ruột của Đức Giêsu, nhất là khi giải thích các khác biệt về những lời giảng dạy, phép lạ của Chúa Giêsu theo các phương pháp nghiên cứu văn chương đồng thời bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng “giải trừ huyền thoại cho Tin Mừng” của Rudolf Bultmann (20/8/1884-30/7/1976), thì vấn nạn mới trở thành chủ đề tranh cãi nặng nề.
1.2. Từ ngữ “anh chị em ruột” của Đức Giêsu trong Tân Ước
Thánh Kinh đã nhiều lần nhắc đến “anh chị em ruột” của Chúa Giêsu trong các bản văn sau đây:
- “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông lại không ở đây với chúng ta đó sao?” (Mc 3,31-35; Mt 12,46-50; Lc 8,19-21).
- “Thưa Thầy có mẹ và anh chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy” (Mc 6,3; Mt 13, 53-58; Lc 4,16-30).
- “Anh em Đức Giêsu nói với Người…Thật thế, anh em Người không tin vào Người” (Ga 7,2.5).
-“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria Thân mẫu Đức Giêsu và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14).
- “Phải chăng tôi không có quyền ăn uống, không có quyền đem theo một người chị em tín hữu như các Tông đồ khác, như các anh em của Chúa và như ông Kêpha?” (1Cr 9,5).
- “Tôi đã không gặp một vị tông đồ nào khác ngoài ông Giacôbê, người anh em của Chúa” (1Gl 1,19).
Trong tất cả các đoạn trích dẫn trên đây, Thánh Kinh Tân Ước dùng từ “anh chị em ruột”, chứ không dùng từ “anh chị em họ” để nói về mối quan hệ với Đức Giêsu. Từ “anh chị em ruột” muốn chỉ mối quan hệ máu mủ hoặc thân thiết như ruột thịt (x. Từ điển Tiếng Việt, mục từ ruột thịt). Cả hai từ “anh chị em ruột” và “anh chị em họ” là những từ riêng biệt, không thể lẫn lộn, chúng khác hẳn với loại từ thiếu xác định như từ “anh em, chị em” của tiếng Việt vì có thể hiểu là anh chị em ruột hay anh chị em họ.
1.3. Vấn nạn phát sinh từ cách dùng chữ trong Tân Ước
Nếu Đức Giêsu có các anh chị em ruột thịt khác như Thánh Kinh nhắc đến thì các nhà Thánh Kinh Tin Lành kết luận rằng Đức Maria và thánh Giuse đã sinh thêm những người con khác. Theo nhiều anh em Tin Lành, việc Đức Trinh Nữ Maria sinh Đức Giêsu, “người con đầu lòng” (x. Lc 2,7), là bởi phép Chúa Thánh Thần, không có yếu tố của người nam (x.Is 7,14; Mt 1,23). Tuy nhiên Đức Maria không trọn đời đồng trinh vì còn sinh thêm những người con khác là anh chị em ruột với Đức Giêsu. Đức Giêsu được gọi là “con đầu lòng” thay vì “con một” vì Người có nhiều anh chị em khác (x. Bài “Bà Mari có đồng trinh trọn đời không?” trong trang web: tinlanh.com, trên mạng Internet).
Hơn nữa, trong câu Phúc Âm: “Ông Giuse không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1,25), từ “cho đến khi” được nhiều nhà Thánh Kinh Tin Lành giải thích theo nghĩa: ông Giuse chỉ không ăn ở với bà Maria trước khi sinh Đức Giêsu rồi sau đó đã ăn ở với bà Maria để sinh ra những người con khác (x. Bài “Bà Mari có đồng trinh trọn đời không?” trong trang web: tinlanh.com, trên mạng Internet).
Từ thế kỷ 20 do ảnh hưởng của phong trào giải trừ huyền thoại cho Phúc Âm, bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ duy thực, duy nghiệm, một số nhà thần học Tin Lành không tin vào việc Đức Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và cho đó cũng là một trong những huyền thoại cần loại trừ vì không thể có việc một trinh nữ sinh con nếu không có sự cộng tác của nam giới theo quan điểm khoa học kỹ thuật. Như thế là người ta chối bỏ ơn đồng trinh của Đức Maria trước khi sinh con. Từ lập luận này, nhiều người đánh mất cả niềm tin vào chính Chúa Giêsu!
2. Câu trả lời từ phía Công giáo
2.1. Lời giải đáp của Giáo hội Công giáo
Lời giải đáp của Giáo hội Công giáo được tìm thấy trong sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 500 như sau: “Hội Thánh vẫn luôn hiểu rằng những đoạn văn này không hề ám chỉ những người con khác của Đức Trinh Nữ Maria: ông Giacôbê và ông Giuse, “anh em của Chúa Giêsu” (Mt 13,56), thật ra là con của một bà Maria nào đó, là môn đệ của Đức Kitô (x. Mt 27,56), bà này được cẩn thận phân biệt là “bà Maria khác” (Mt 28,1). Đây là những người anh em bà con họ hàng gần, theo như cách nói quen dùng trong Cựu Ước (x. St 13,8; 14,16; 29,15…)”.
2.2. Nhận định về lời giải đáp này
Chúng ta phải nói thật rằng: lời giải đáp này chưa thoả đáng đối với chính những người nghiên cứu Thánh Kinh trong nội bộ Giáo hội Công giáo và chưa thuyết phục được các anh em Tin Lành vì bản văn Thánh Kinh nhiều lần dùng từ “anh chị em ruột” của Đức Giêsu chứ không dùng từ nào khác.
Hơn nữa nếu quy chiếu những người con như Giacôbê, Giuse, Giuđa, Simon vào 1 bà “Maria nào đó” thì việc quy chiếu này có vẻ gượng ép vì thánh Matthêu nhắc đến tên bà này có thể chỉ vì muốn phân biệt với bà Maria Magđala vừa được nhắc trước đó (x. Mt 27,61) hoặc với bà Maria, mẹ của một mình ông Giacôbê (x. Lc 24,10). Còn trong nhiều câu khác có nhắc đến từ “anh em ruột của Đức Giêsu” mà không quy chiếu vào người phụ nữ nào nên không thể hiểu đó là con của bà Maria khác (Mt 28,1).
Còn việc nhắc đến các đoạn trích dẫn Thánh Kinh Cựu Ước (x. St 13,8; 14,16; 29,15…) rõ ràng gượng ép vì nguyên ngữ Do Thái cổ cho phép dịch là bà con, họ hàng trong khi nguyên ngữ Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp không cho phép hiểu như vậy.
Kiểu giải thích “anh chị em ruột” thành “anh chị em họ” còn có thể gây ra sự hiểu lầm nguy hiểm vì một từ được Chúa Thánh Thần linh hứng lại không được hiểu đúng theo nghĩa chữ của nó, và người ta có thể áp dụng kiểu giải thích “quá rộng” này cho các từ khác khiến ta có thể làm mất lòng tin vào Thánh Kinh.
Vì thế từ “anh chị em ruột” chắc chắn mang ý nghĩa sâu xa thúc đẩy ta tìm hiểu sâu rộng hơn thì mới có thể thuyết phục được anh em Tin Lành.
3. Lời giải đáp theo hướng đối thoại đại kết
3.1. Hướng giải thích mới
Trước hết chúng tôi mời gọi anh em các giáo phái Tin Lành cùng tìm hiểu thêm với chúng tôi về vấn nạn này qua các bản văn Thánh Kinh được giải thích theo hướng đại kết như sau:
- Chúng tôi đồng ý với anh em rằng những từ “anh chị em ruột” mà Tân Ước dùng là hoàn toàn chính xác vì tất cả những ai liên kết với Đức Giêsu đều thật sự là có quan hệ ruột thịt, máu mủ với Người. Điều này chúng tôi sẽ khai triển rộng hơn trong phần dưới đây.
- Tân Ước không dùng từ “con một” nhưng dùng từ “con trai đầu lòng” (Lc 2,7) vì muốn ám chỉ đến việc Đức Giêsu là người con đầu tiên mà Chúa Cha và Mẹ Maria sinh ra trong đại gia đình mới và chúng ta, tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, đều trở thành những người em ruột của Người. Nếu dùng từ “con một” thì gia đình này sẽ không mở rộng cho tất cả chúng ta
- Từ “cho đến khi” trong câu Phúc Âm: “Ông Giuse không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1,25) còn có thể hiểu như một hành động tiếp theo việc sinh nở là đặt tên Giêsu cho người con mới sinh. Từ “và” ở đây theo văn phạm Hy Lạp có nghĩa tương đương tiếng Việt là “thì” nên câu Phúc Âm có thể dịch như sau: “Ông Giuse không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai thì ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Nếu hiểu theo nghĩa này thì chúng ta không thể hiểu ngầm rằng Đức Maria và ông Giuse ăn ở với nhau như những đôi vợ chồng khác sau khi sinh Chúa Giêsu vì Thánh Kinh không nói đến việc đó. Điều này chúng tôi cũng sẽ nói thêm trong phần dưới đây khi nói đến tình yêu và sứ mạng của Mẹ Maria và thánh Giuse.
3.2. Tất cả chúng ta là anh chị em ruột của Đức Giêsu
Chúng ta cùng xác tín trong đức tin Công giáo rằng: “Chúa Giêsu là người con duy nhất của Đức Maria. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ (x. Ga 19,26-27; Kh 12,17) trải rộng cho hết mọi người đã được Chúa Giêsu đến cứu độ. Người Con mà Mẹ sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29), tức là các tín hữu, mà Mẹ đã cộng tác vào việc sinh hạ và dạy dỗ họ với tình yêu từ mẫu” (x. CĐ. Vat. II, Hiến Chế Lumen gentium, số 63; Sách GLHTCG, số 501). Chúa Giêsu được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria (x. Lc 1,35; Sách GLH TCG, số 437), “được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, không có mầm mống nam nhân” (CĐ Lateranô, năm 649, canon 3, DS 503; Sách GLHTCG, số 496).
Những người được Thánh Kinh nhắc đến như là “anh chị em ruột” của Đức Giêsu, xét về huyết thống tự nhiên, chỉ là những anh chị em họ, bà con với Người vì Mẹ Maria và thánh Giuse có những người thân thuộc sống tại Nazareth. Những người này cũng đi theo Chúa Giêsu (x. Mc 3,31-33; Mt 12,46-50; Lc 8,19-21), có người trở thành môn đệ và có địa vị trong cộng đồng Giáo hội sơ khai (x. Gl 1,19).
Tuy nhiên, Thánh Kinh luôn dùng từ “anh chị em ruột” khi nhắc đến mối liên hệ huyết thống tự nhiên này với ý nghĩa siêu nhiên. Lý do là vì khi Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành người là Đức Giêsu, đón nhận 1 thân xác như bất cứ con người nào, thì Người đã trở nên anh chị em ruột thịt của họ, để dẫn đưa họ vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong 1 gia đình duy nhất của Thiên Chúa. Trong Đức Giêsu Kitô, mọi người đều là anh chị em ruột thịt của nhau vì cùng thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất (x. Sách GLHTCG, số 355-360). Do đó, trong Thánh Kinh cũng như trong các lời chào của thánh lễ, chúng ta đều gọi nhau là “anh chị em ruột” chứ không chỉ coi nhau là “họ hàng”.
Hơn nữa qua thể xác vật chất, Đức Giêsu còn liên kết với mọi thụ tạo trong vũ trụ này để trở thành người anh cả của chúng (x. Rm 8,29) và vì thế vạn vật cũng là những đứa em ruột thịt của con người vì “con người, nhờ chính điều kiện có thân xác của mình, quy tụ nơi mình những yếu tố của thế giới vật chất, cho nên nhờ con người, các yếu tố ấy đạt tới tuyệt đỉnh của chúng và có thể tự do dâng lời ca ngợi Đấng Tạo Hoá” (x. CĐ Vat.II, HCGaudium et Spes, số 14; Sách GLHTCG, số 364). Vì thế, Người chết để cứu độ tất cả. Vũ trụ cảm nhận được điều đó nên biểu lộ sự vui mừng qua việc xuất hiện ngôi sao (x. Mt 2,2-10), sự vâng phục qua các phép lạ Người làm trên vạn vật (x. Mc 4,37-41; 6,34-44; 6,45-52, Mt, 17,24-27; Lc 5,1-11; Ga 2,1-11), sự chia sẻ khi Người chết trên thập giá (x. Mt 27,45.51-53).
Nói cho cùng, thân xác chúng ta được cấu tạo bằng những nguyên tố vật chất Carbon-Hydro-Oxy-Nitơ như những thành phần chính cho mọi người, mọi vật. Mỗi ngày, chúng ta đưa những nguyên tố đó vào trong thân thể mình qua đồ ăn, thức uống, khí thở rồi chúng ta lại thải các chất ra để tạo nên thân thể cho muôn loài. Chúng ta hợp thành một thân thể lớn lao của toàn thể vũ trụ, trở thành anh chị em ruột thịt của nhau vì hình thành nên thân xác cho nhau. Thân xác Chúa Giêsu và Mẹ Maria cũng được cấu tạo bằng những thành phần đó.
Xin cho phép tôi đưa ra một minh chứng khoa học. Nhiều người không còn nhớ nổi con số và nguyên lý của nhà bác học Amedeo Avogadro (1776-1856): “Trong cùng một điều kiện nhiệt độ và áp suất, các khí khác nhau có cùng một thể tích sẽ chứa cùng một số nguyên tử hay phân tử như nhau. Số đó là N = 6,022 x 10 . 23”. Nếu 16 gram Oxy ta thở, hay 18 gram nước ta uống, chia đều cho 7 tỷ người đang sống trên trái đất này thì mỗi người được khoảng hơn 9 ngàn tỷ nguyên tử thật hay phân tử thật trong cơ thể mình.
Quả thật, trong thân xác ta đang có những nguyên tử, phân tử vật chất của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong cuộc trao đổi sinh tồn của vạn vật từng giây phút vì qua mấy chục năm sống của Chúa và Mẹ, thân xác chúng ta đã và đang giữ những nguyên tố vật chất đã từng hình thành nên con người của Chúa và Mẹ. Vì thế chúng ta rất tự hào là anh chị em ruột của Chúa Giêsu và con cái thật sự của Mẹ Maria, không phải chỉ về mặt tinh thần mà cả thể chất nữa. Chia sẻ với mọi người điều này, nhất là với anh chị em theo các hệ phái Tin Lành, Cải Cách, chúng tôi hy vọng anh chị em sẽ tìm lại được niềm tin yêu tuyệt đối vào Chúa Giêsu Kitô và vào Người Mẹ Thánh của chúng ta.
3.3. Vai trò và sứ mạng của Đức Maria và thánh Giuse trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể
Ngày nay, nhiều tín hữu thuộc các hệ phái Tin lành càng ngày càng khám phá ra vai trò độc đáo của Đức Trinh Nữ Maria trong mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành Đức Giêsu Nazareth để thực hiện công trình cứu độ và hoà giải con người với Thiên Chúa. Để thực hiện công trình này, Thiên Chúa đến với con người, ban cho con người tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa và con người cũng phải tự nguyện đến với Thiên Chúa để dâng hiến tất cả những gì thuộc về mình cho Ngài. Và chỉ có như thế thì Đức Giêsu mới vừa là Thiên Chúa trọn vẹn vừa là một con người trọn vẹn.
Đức Trinh Nữ Maria đã được chọn để đại diện cho con người dâng hiến cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về con người với một sự tự do đầy ý thức và một tình yêu vượt lên trên tất cả dù Đức Maria đã đính hôn với ông Giuse. Cuộc đối thoại với sứ thần trong buổi truyền tin đã nói cho chúng ta những đặc tính này (x. Lc 1,26-38). Chính khi Đức Maria mở lòng ra một cách hoàn toàn và trọn vẹn cho Thiên Chúa để Chúa Thánh Thần đến với Mẹ thì Ngôi Lời đã trở thành người (Ga 1,14). Như thế, Đức Maria không phải chỉ đóng góp trong tư cách là một người phụ nữ cho việc hình thành nên con người Giêsu mà là đại diện cho toàn thể nhân loại và vũ trụ đóng góp phần nhân tính cho Người. Vì thế, Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu trọn vẹn vừa là Thiên Chúa vừa là người.
Một số người ngày nay nghĩ rằng Đức Maria chỉ đóng góp vào việc sinh hạ Đức Giêsu trong tư cách là người nữ và họ đòi hỏi yếu tố nam nhân. Nhưng chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa có thể dựng nên mọi sự từ hư không thì Ngài cũng có thể lấy từ phần nhân tính Đức Maria đóng góp để phối hợp với thiên tính mà hình thành nên Đức Giêsu Kitô. Nếu con người nghĩ rằng Đức Giêsu cần đến yếu tố nam nhân để hình thành thì ơn cứu độ cũng không cần phải đến từ Thiên Chúa và con người có thể tự cứu thoát mình. Điều này đi ngược với lòng tin của chúng ta và cũng đi ngược với thực tế vì một thụ tạo hữu hạn, bất toàn, khả tử không thể tự làm cho mình trở thành vô hạn, vĩnh hằng, tuyệt đối, hoàn hảo như Thiên Chúa.
Người tín hữu Công giáo luôn tin tưởng Đức Maria trọn đời đồng trinh nghĩa là Mẹ giữ mãi sự trinh khiết trước, trong và sau khi sinh Chúa Giêsu bởi vì Mẹ đã tận hiến hoàn toàn cho tình yêu Thiên Chúa khi đón nhận sứ mạng sinh ra, dưỡng nuôi, giáo dục và đi theo Chúa Giêsu cho đến khi hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã uỷ thác cho Người. Một khi dành tình yêu trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho Đức Giêsu, nhất là khi đón nhận nhiệm vụ làm Mẹ của mọi tín hữu trong lời trăn trối của Chúa Giêsu trên thập giá (x. Ga 19,26-27) thì Mẹ Maria không bao giờ sao lãng nhiệm vụ này để dành tình yêu cho một người nào khác. Mẹ đã nhận mọi tín hữu là những đứa con ruột thịt của mình để muôn đời thực hiện sứ mạng làm Mẹ. Vì thế, Giáo hội Công giáo cũng như Chính thống giáo có lòng tôn kính đặc biệt đối với Mẹ Maria. Nhiều khi lòng tôn kính này đi quá trớn khiến cho một số anh em Tin Lành lầm tưởng đó là sự thờ kính giống như tôn thờ Thiên Chúa. Giáo hội Công giáo đã nhắc nhở điểm này trong nhiều giáo huấn, đặc biệt trong Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium của Công đồng Vaticanô II, từ số 52-69.
Hơn nữa, nếu chúng ta hiểu đức tin là cuộc gặp gỡ con người với Đức Giêsu chứ không phải chỉ là những hình thức đạo đức bên ngoài thì rất nhiều tín hữu Công giáo lại không chú ý đến cuộc gặp gỡ này như Thượng Hội đồng tháng 10/2012 nhắc nhở nhiều lần trong văn kiện Tài liệu Làm việc (x. TLLV, số 17,18,19).
Nói đến sứ mạng và tình yêu của Đức Maria dành cho Thiên Chúa giúp cho Mẹ trọn đời đồng trinh thì chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào sự tương đồng của tình yêu giữa thánh Giuse và Đức Mẹ cũng như tình yêu trọn vẹn của thánh Giuse dành cho Thiên Chúa và Đức Giêsu Con của Ngài. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa tuyển chọn và sai thiên thần đến mạc khải cho biết Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa làm người và Đức Maria – vị hôn thê của Ngài – được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Chúa Giêsu (x. Lc 1,19-25) để giao phó cả hai kho tàng quý giá nhất của Thiên Chúa cho Người. Vì thế, ý thức về sứ mạng cao quý tuyệt vời của mình, thánh Giuse đã dồn tất cả năng lực và tình yêu để bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong suốt cả đời mình. Do đó, thánh Giuse cũng là một vị thánh được tôn kính đặc biệt trong hàng ngũ các thánh, chỉ sau Đức Maria.
Lời kết
Chúng ta hy vọng rằng vấn nạn “anh chị em ruột của Đức Giêsu” sẽ không còn là một đề tài gây tranh cãi hay xung đột giữa các tín hữu Kitô giáo, nhưng có thể trở thành một dịp may thúc đẩy chúng ta học hỏi đề tài và phát triển tình liên đới huynh đệ trong đại gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó, những anh chị em ngoài Kitô giáo sẽ cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc và ân sủng tràn đầy của những ai gắn bó với Đức Giêsu, và qua Người, gắn bó với toàn thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh trên khắp thế giới.