Lm. Phan Tấn Thành O.P.
LĐ: Lao động
GHXH: Giáo huấn xã hội của Giáo hội
TLHT: Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội
XH: xã hội
Thông điệp:
LE: Laborem exercens; CA: Centesimus annus.
Hiến chế:
GS: Gaudium et spes.
Trong sách TLHT đề tài lao động được
bàn
ở chương 6, được phân ra
làm 7 đoạn:
1. Khía cạnh Kinh thánh (số 255-266)
2. Giá trị ngôn sứ của Thông điệp Rerum novarum (số
267-269)
3. Phẩm
giá lao động (số 270-286)
4. Quyền
làm việc (số 287-300)
5. Những quyền lợi của người lao động (số 301-304)
6. Tình
liên đới giữa những người
lao động (số 305-309)
7. Những vấn đề mới (res novae) của thế giới lao động (310- 322)
Chiều dài và tầm quan trọng của các đoạn không ngang nhau. Đoạn 2 và
đoạn 7 đặt vấn đề lao
động trong bối cảnh lịch sử,
trình bày những vấn đề mới (res novae) hồi thế kỷ XIX (Thông điệp Rerum novarum) và vào thời nay. Đoạn 1 nói đến khía cạnh Kinh thánh nhằm cung cấp cho các tín hữu ánh sáng của Lời Chúa, nhưng có lẽ sẽ khó sử dụng được cho những người ngoài Kitô giáo. Đoạn 3 có thể coi như căn bản cho mọi hình thức lao động, (được khai triển trong ba đoạn tiếp theo), dựa theo Thông điệp Laborem
exercens của đức thánh cha
Gioan Phaolô II.
I. Khía cạnh Kinh thánh
Mọi
suy tư thần học đều bắt đầu bằng Lời Chúa.
Như vừa nói, những điều nói ở đây có giá trị cho các Kitô hữu, chứ chưa hẳn có sự thuyết phục các tôn giáo khác. Mặt khác, Kinh thánh nói đến “lao động” dưới khía cạnh thần học luân lý và tu đức, hơn là những khía cạnh kinh tế xã hội vào thời đại chúng ta. Chúng ta sẽ trở lại điều
này
trong Mục 2 (nhận xét).
Đoạn này gồm có ba khoản:
1/ Cựu ước: sứ mệnh lao động vào lúc tạo dựng. 2/ Tân ước: Đức Kitô
gương mẫu lao động.
3/ Nghĩa vụ làm việc dựa theo các thánh tông đồ và các giáo
phụ.
A. Nghĩa vụ khai khẩn và bảo tồn trái đất
1/
Trong chương trình của Đấng Tạo Hoá, các vật thụ tạo được dựng nên
để phục vụ con người (số 255).
-
Cựu
ước trình bày Thiên Chúa như là Đấng Tạo Hoá quyền năng (St
2,2).
-
Thiên Chúa nặn lên con người theo hình ảnh của Ngài và mời gọi
con người canh tác trái đất (St
1,28).
-
Con
người được đặt làm quản lý vũ trụ, nhưng không có quyền khai thác vũ trụ một cách vô trách
nhiệm.
2/
Lao động là một điều kiện của con người ngay từ lúc khai nguyên,
trước khi sa ngã. Vì thế lao động không phải là một sự trừng phạt hoặc là một lời chúc dữ cho con người (số 256). Lao động trở thành nặng nhọc vất vả do tội lỗi của ông Ađam và bà Evà (St
3,6-8). Con người phải tùng phục
Thiên Chúa trong việc quyết định điều gì là tốt hay xấu. Con người không có quyền thống trị tuyệt đối trên vạn vật. Dù sao, kế hoạch của Thiên Chúa vào lúc khai nguyên vẫn không
thay đổi: con người được mời gọi canh tác và giữ gìn vũ trụ.
3/
Lao động là một điều thiết yếu đối với con người, nhưng
nguyên ủy và cứu cánh của con người là Thiên Chúa, chứ không phải là lao động (số 257). Cần phải tôn trọng lao động, bởi vì nó là nguồn gốc của giàu có và phong lưu. Nó là một dụng cụ hữu hiệu để chống lại sự nghèo nàn (Cn 10,4). Tuy nhiên đừng để cho lao động trở thành ngẫu tượng.
“Thà rằng ít tiền của mà liêm khiết,
còn hơn là giàu sang
mà thiếu công bằng”
(Cn 16,8).
4/
Tột đỉnh của giáo huấn của Kinh thánh về lao động là lệnh truyền phải nghỉ ngơi ngày sabát (số 258). Nó mở ra cho con người viễn ảnh của một sự tự do hoàn toàn, vào ngày Sabát vĩnh cửu (Hr 4,9-10).
Sự nghỉ ngơi cho phép con người được nhắc nhớ và sống lại những công trình của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và cứu
chuộc, và để tạ ơn Ngài.
Cảm nghiệm về
ngày sabát là thành lũy chống lại nạn làm nô lệ cho lao động và chống lại tất cả mọi hình thức khai thác bóc lột. Ngoài “ngày sabát” hằng tuần, Cựu ước còn có chế độ “năm sabát”
theo chu kỳ bảy năm (Xh 23,10-11),
trong đó, người giàu hạn chế quyền khai thác tài sản nhằm giúp đỡ người nghèo; điều này cũng
nhắc nhớ rằng việc thu tích tài sản của một thiểu số có thể đưa đến việc truất hữu tài sản của nhiều người
khác[i].
B. Đức Giêsu,
một con người làm việc
1.
Trong các bài giảng,
Đức Giêsu đã dạy dỗ chúng ta hãy biết quý trọng sự làm việc (số 259). Chính Người đã nêu gương làm việc tay chân trong xưởng thợ mộc. Người lên án thái độ của người tôi tớ lười biếng (Mt 25,14-30), và khen ngợi người tôi tớ trung thành
và khôn ngoan (Mt 24,46).
Người diễn tả sứ mệnh của mình như là một công tác (làm việc): “Cha của tôi vẫn làm việc và chính tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Người cũng diễn tả sứ mệnh của các môn đệ như là những người làm việc trong mùa gặt của Chúa (Mt 9,37-38).
“Người thợ đáng hưởng
tiền lương của mình”
(Lc 10,7).
2/
Đức Giêsu dạy con người
đừng trở thành nô lệ cho lao động (số 260). Tiên vàn con người hãy lo cứu rỗi linh hồn mình (Mc 8,36). Đừng vì tìm kiếm lợi lộc mà xao lãng Nước Thiên Chúa và công lý của Ngài.
3/
Ý nghĩa cao quý nhất của lao động ở chỗ hoạt động để giải phóng khỏi sự dữ, thực hành tình huynh đệ và chia sẻ, nhờ đó giúp cho nhân loại tiến về ngày Sabát vĩnh cửu (số 261). Đức Giêsu nỗ lực hoạt động không ngừng để giải thoát con người khỏi bệnh tật, đau khổ và cái chết. “Ngày sabát được làm ra cho con người, chứ không phải con
người được làm ra cho ngày sabát” (Mc 2,27).
4/
Trong các văn phẩm, thánh Phaolô và thánh Gioan mở ra những viễn tượng mới của công cuộc tạo dựng (số 262). Vạn vật là một công trình tuyệt tác của Ba Ngôi Thiên Chúa (Ga 1,3;
1 Cr 8,6; Cl 1,15-17). Vũ trụ không phải là một khối hỗn mang nhưng là một kiệt tác. Con người được mời gọi hãy chiêm ngắm kỳ công của Thiên Chúa, và tham gia bằng những việc làm của mình. Những vất cả lao nhọc khi làm việc mang giá trị cứu độ nếu biết kết
hợp với Thánh giá của Đức Kitô (số
263).
C. Bổn phận làm việc
1/
Các Kitô hữu cần phải sống đời lao động giống như cung cách của Đức Kitô
(Số 264). Mọi người phải làm việc, chứ không
ăn
bám người khác (2Tx 3,7-15; 6,12). Cần phải bày tỏ tình liên đới qua việc chia sẻ những hoa trái của việc làm. Mỗi người lao công đều
đáng hưởng tiền lương (Gc 5,4).
2/
Các giáo phụ không coi lao động như là “công việc của nô lệ” nhưng như là “việc làm của con người” (số 265). Nhờ làm việc mà con
người cai quản vũ trụ với Thiên Chúa,
và làm chủ thế giới cùng với Ngài. Sự ăn không ngồi rồi gây thiệt hại cho con người, còn hoạt động thì làm lợi cho thân xác và tinh thần. Người Kitô hữu làm việc cho bản thân và gia đình của mình, cũng như cho người nghèo. Theo thánh Ambrôsiô,
mỗi người thợ là bàn tay của Đức Kitô,
Người tiếp tục tạo dựng và làm
lành cho tha nhân.
3/
“Ora et labora”[ii]: cầu nguyện và làm việc! (số 266). Nhờ đức mến
định hướng, việc làm trở nên
cơ hội chiêm niệm.
II. Giá trị tiên tri của
Thông điệp Rerum Novarum
(Đoạn này ôn lại lý do của việc Giáo hội lên tiếng về vấn đề lao động
trong thế kỷ XIX-XX)
1/
Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã gây ra một thách đố cho Giáo hội (số 267). Vào thế kỷ XIX, xã hội đã biến chuyển từ nông nghiệp sang
cơ khí.
-
Cách tổ chức lao động mới của kỹ nghệ đã tạo ra cảnh khai thác
các công nhân.
-
Cảnh lầm than của giới công nhân đã trở thành cơ hội để cho chủ nghĩa
xã hội và cộng sản khai thác cuộc tranh đấu chính đáng của giới thợ thuyền.
-
Từ
đó nảy ra “vấn đề lao động”,
nghĩa là sự khai thác các công nhân.
2/
Thông điệp Rerum Novarum tiên vàn là lời bảo vệ hăng say cho phẩm giá bất khả nhượng
của các công nhân (số 268).
Giáo hội gắn liền phẩm giá ấy với:
-
quyền tư hữu;
-
nguyên tắc hợp tác giữa các giai cấp;
-
những quyền lợi của những kẻ yếu kém
và
nghèo khó;
-
những nghĩa vụ của các công nhân
và chủ
nhân;
-
quyền lập hội.
Thông điệp nhấn mạnh đến việc đem tinh
thần Kitô giáo thấm nhập vào xã hội, qua các nghiệp đoàn, các trung tâm nghiên cứu xã hội, các hiệp hội công nhân và hợp tác xã, các ngân hàng nông dân, việc
bảo hiểm và cơ quan cứu
trợ, vv…
Chiến dịch thấm nhập tinh thần Kitô giáo vào xã hội đã góp phần thúc đẩy công cuộc soạn thảo những luật lao động: bảo vệ các
công nhân, cách riêng phụ nữ và trẻ em; việc huấn luyện;
cải thiện lương bổng và vệ sinh nơi làm việc.
3/
Lao động là một chìa khóa then chốt của vấn đề xã hội,
chi phối sự phát triển của toàn thể nhân loại về mọi phương diện: kinh tế, văn hóa, luân lý (số 269). Vấn đề này dần dần mang những chiều kích toàn cầu. Thông điệp Laborem
excercens bổ túc thêm nhiều suy tư mới về khía cạnh nhân bản của lao động, về những ý nghĩa của nó
đứng trước những câu hỏi mới
được đặt lên.
III. Phẩm giá của lao động
Đây là đoạn quan trọng nhất xét về đạo lý. Lao động được phân tích dưới nhiều khía cạnh: chủ
thể và khách thể; xã hội; nghĩa
vụ.
A. Chiều kích chủ thể và khách thể của lao động
Vì là một nhân vị mà con người
là chủ thể lao động (số 270).
1/
Ý nghĩa khách thể của lao động: Đó là toàn thể những hoạt động, tài nguyên, dụng cụ và kỹ thuật mà con người sử dụng để
sản xuất. Đây là khía cạnh hay thay đổi của
hoạt động con người.
2/
Ý nghĩa chủ thể của lao động: Lao động xét như là hành động của con người, một nhân vị, nghĩa là chủ thể có lý trí và ý chí. Đây là khía cạnh bền vững, nó không tùy thuộc vào loại công tác hoặc kết
quả do mình làm ra.
3/
Chiều kích chủ thể mang lại phẩm giá cho lao động (số 271). Không được phép đối xử con người như một món hàng. Con người là tiêu chuẩn đo lường phẩm giá lao động. Vì thế những điều sau đây làm mất
đi bản tính của lao động:
-
Người công nhân bị coi như một lực lượng sản xuất dựa theo cái nhìn duy vật và kinh tế.
-
Đặt chiều kích khách thể lên trên chiều kích chủ thể: lao động
và kỹ thuật được coi là quan trọng
hơn chính con người.
4/
Mục tiêu của lao động bao giờ cũng là con người, chứ không phải là đối tượng khách thể của việc làm (số 272). Lao động là vì con người, chứ không phải là con người
vì lao động.
5/
Lao động của con người tự nó bao hàm một chiều kích xã hội (số 273). Làm việc là làm việc với người khác và cho người khác. Những kết quả của lao động cũng là cơ hội của những sự trao đổi, những mối tương quan,
những cuộc gặp gỡ.
-
Điều kiện để cho hoạt động của con người mang lại thành quả dồi dào: xã hội được tổ chức thành những đoàn thể; hệ thống xã hội và pháp lý biết bảo vệ lao động; tình liên đới nghề nghiệp;
sự kết hợp giữa trí tuệ,
tư bản,
lao động.
-
Để
đánh giá đúng mức việc làm và trả lương cân xứng, cần phải xét đến khía cạnh vừa cá nhân vừa xã hội của
lao động.
6/
Làm việc cũng là một bổn phận của con người (số 274).
Đây là một đòi hỏi của Đấng Tạo hoá cũng như yêu sách của sự phát triển nhân cách. Làm việc là một nghĩa vụ đối với tha nhân: gia đình, xã hội, quốc gia. Chúng ta là những người thừa kế của công lao của các thế hệ trước ta, và là những kẻ kiến tạo tương lai cho những người đến sau ta.
7/ Lao động xác nhận căn cước thâm thúy của con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (số 275). Con người được làm chủ thế giới hữu hình theo kế hoạch nguyên thuỷ của Đấng Tạo hóa. Con người không phải là chủ nhân của vũ trụ, nhưng chỉ là quản lý, được mời gọi phản ánh Đấng Tạo hoá nơi
việc làm của mình.
B. Tương quan giữa lao động và tư bản
1/
Vì mang tính cách nhân vị nên chi lao động đứng trên tất cả những thành tố sản xuất khác (số 276). Do khía cạnh chủ thể, lao động đứng trên tư bản vật chất: các phương tiện sản xuất, nguồn tài
chính, các hoạt động thị
trường chứng khoán, vv…
2/
Lao động tự bản chất đi trước tư bản; đôi bên bổ túc cho nhau (số 277).
Lao động đi trước, bởi vì là nguyên
nhân tác thành; tư bản chỉ là nguyên nhân dụng cụ. Bổ túc, bởi vì cả hai đều liên hệ mật thiết trong tiến trình sản xuất. “Không
thể có tư bản mà không có lao động, cũng như không thể có lao động mà không có tư bản” (Thông
điệp Rerum Novarum). Vì thế sẽ là sai lầm nếu cho rằng chỉ có tư bản hoặc chỉ có lao động là nguyên nhân độc nhất của những gì
đã được sản xuất.
3/
Khi bàn về tương quan giữa lao động và tư bản, cần nhớ rằng con người chính là “nguyên
liệu chính yếu”,
và “yếu tố quyết định” nằm ở trong tay con người (số 278). “Sự phát triển toàn diện con người trong lao động sẽ làm tăng gia chứ không đi ngược với nhịp độ sản xuất và hiệu năng của chính lao động” (Thông điệp CA số 43). Ngày nay, chiều kích chủ thể có khuynh hướng mang tính quyết định và quan trọng hơn là chiều kích khách thể. (Điều này khác với
quá khứ, khi mà con
người bị đối xử như một cái
máy).
4/
Tương quan giữa lao động và tư bản thường mang những dấu tích của xung đột (số 279). Trước đây, các doanh nhân, do nguyên tắc lợi nhuận, tìm cách giữ đồng lương ở mức thấp nhất có thể. Ngày nay, trong khung cảnh của tiến bộ kỹ thuật và toàn cầu hóa, những người thợ có nguy cơ bị khai thác bởi những bộ máy kinh
tế và thi đua sản xuất.
5/
Tiến trình vượt qua sự
lệ thuộc của lao động vào
vật chất tự nó không đủ khả năng để vượt qua sự tha hóa về nơi làm việc và ngay cả về lao động (số 280). Lao động xâm nhập vào những chiều kích khác
cũng cần thiết cho con người:
đời sống gia đình.
C. Lao động, cứ điểm cho sự tham gia
Sự
tham gia của các công nhân vào sở hữu, sự quản trị và những hoa trái của sở hữu (số 281). Các công nhân cần được nhìn
nhận như là đồng sở-hữu-chủ của doanh
nghiệp: như vậy là kết hợp lao động với việc sở hữu tư bản. Nên nghĩ ra việc thiết lập những cơ cấu
nhằm mục tiêu kinh tế, xã hội và văn
hóa (LE số 14).
D. Tương quan giữa lao động và tư hữu
1/
Tư hữu được thủ đắc nhờ lao động, vì thế cần phải phụng sự lao động (số 282). Điều này cần được áp dụng cách riêng đối với việc chiếm hữu các phương tiện sản xuất, cũng như các tài sản thuộc
thế giới tài chính, kỹ thuật, trí tuệ, nhân sự. Các phương tiện sản xuất không thể được chiếm hữu để chống lại lao động, cũng như không thể được chiếm hữu nguyên chỉ để chiếm hữu (LE số 14). Quyền tư hữu phải tùy thuộc
nguyên tắc về các tài nguyên được dành cho tất cả mọi người; cũng vậy, quyền
tư hữu không được ngăn cản lao động và sự phát triển của tha nhân. Nếu làm ngược lại thì quyền tư hữu trở thành bất hợp pháp, chẳng
hạn như khi tư hữu làm ngăn trở lao động của tha nhân, bóc lột, phá vỡ tình liên đới trong giới lao động, vv…
2/
Tư hữu tư và công cần được sắp xếp nhắm đến một nền kinh tế phục vụ con nguời (số 283). Các kiến thức và kỹ thuật mới cũng được dành cho toàn
thể nhân loại, cũng giống như việc sở hữu đất đai và tư bản. Sự tập trung kiến thức và kỹ thuật vào những quốc gia tiến
bộ và vào tay một thiểu số nắm quyền
có nguy cơ đưa đến nạn thất nghiệp và khơi
rộng hố ngăn cách giữa những
người giàu và người
nghèo.
E. Việc nghỉ ngơi các ngày lễ (số 284)
1/
“Vào ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi sau tất cả những gì đã làm” (St 2,2). Vào ngày chúa nhật và lễ buộc, các tín hữu hãy ngưng những công tác hoặc hoạt động nào làm ngăn cản sự thờ phượng
Thiên Chúa, niềm vui riêng
của Ngày của Chúa, thi hành các công tác từ thiện, và thư dãn tinh thần và thể xác (GLHTCG số 2185).
2/
Chúa nhật là một ngày cần được thánh hóa bằng đức ái thực hành (số 285): quan tâm đến các phần tử trong gia đình; thăm viếng những người bệnh tật, già lão. Dành thời giờ thích hợp để suy tư, thinh
lặng, học hỏi những
điều giúp thăng tiến đời sống nội tâm và đạo đức. Chúa nhật là ngày giải thoát, tiên báo niềm vui trên trời (xc. Hr
12,22-23).
3/
Chính quyền phải để ý lo liệu sao cho các công dân không bị tước mất thời gian dành cho việc nghỉ ngơi và phụng tự, dưới danh nghĩa là tăng gia sản xuất kinh tế (số 286). Các Kitô hữu phải đòi hỏi để pháp luật nhìn nhận những chúa nhật và ngày lễ trọng như là
ngày nghỉ việc.
IV. Quyền làm việc
Trong đoạn này, Sách TLHT bàn đến quyền làm việc nhìn cách tổng quát cũng như từ phía một vài thành phần xã hội: các phụ nữ, trẻ em,
người di cư, nông dân.
A. Sự cần thiết của công ăn việc làm
1/
Làm việc là một quyền lợi căn bản và một điều thiện đối với con người (số 287). Lao động là một giá trị cho cá nhân, đồng thời cũng là một điều cần thiết để thành lập và nuôi sống gia đình; thủ đắc tài sản; đóng góp vào công ích. Thất nghiệp là một tệ nạn xã hội, cách
riêng đối với các thế hệ
trẻ.
2/
Làm việc là một điều thiện cho hết mọi
người, và phải nằm trong tầm tay của những người có khả năng (số 288). Mục tiêu của hết mọi hệ thống kinh tế nhắm đến công bình và công ích là phải tạo
ra công ăn việc làm cho hết mọi người. Đây là một trách nhiệm nặng nề
của những người hoặc
cơ quan định hướng chính sách lao động và kinh tế
trên bình diện quốc gia và quốc tế.
3/
Một hệ thống kinh tế được đánh giá qua những viễn ảnh lao động mà nó có thể cung cấp (số 289). Nạn thất nghiệp
là một thảm cảnh đè
nặng trên nhiều tầng lớp xã hội.
4/
Tầm quan trọng của hệ thống giáo dục và đào tạo (số 290). Hệ thống giáo dục phải cho phép đối diện với nhu cầu thay đổi việc làm nhiều lần trong suốt thời kỳ lao động. Các bạn trẻ phải học cách đối phó với những rủi ro kèm theo bối cảnh kinh tế hay thay đổi
và những diễn biến không thể
lường được.
B. Vai trò
của Nhà Nước và xã hội dân sự trong việc cổ động quyền làm việc
1/
Nhà Nước có nhiệm vụ cổ võ những chính sách thúc đẩy lao động (số 291). Tuy nhiên Nhà Nước không có phận sự phải bảo đảm trực tiếp quyền làm việc của các công nhân bằng cách chỉ huy tất cả đời sống kinh tế. Nhà Nước cần nâng đỡ hoạt động của các doanh nghiệp,
bằng cách tạo ra những điều kiện cho phép cung cấp việc làm.
2/ Cần
cổ võ sự hợp tác hữu hiệu giữa
các chính phủ (số 292). Ngày nay các tương quan kinh tế tài chánh và thị trường lao động mang tầm kích
hoàn vũ. Vì thế cần phải
ký
kết những thoả ước và
những hành động chung nhằm bảo vệ quyền làm việc và lương bổng. Trong lãnh vực này, các tổ chức quốc tế và nghiệp đoàn có vai
trò quan trọng.
3/ Nên
khuyến khích các mô hình “tự
quản trị” mà thông điệp
Rerum novarum đã đề cập để
cổ võ quyền làm việc (số 293).
C. Gia đình và quyền làm
việc
Lao
động là nền tảng xây dựng gia đình. Đời sống gia đình và lao động chi phối lẫn nhau bằng nhiều cách: có những thứ lao động gây thiệt hại cho gia đình, và có những khủng hoảng gia đình gây ảnh hưởng tiêu cực cho lao động (số 294). Cần tránh hai điều sai lầm: quan niệm tư riêng về gia đình và quan niệm kinh tế về lao động.
D. Phụ nữ và lao động (số 295)
Tất cả mọi hình thức xã hội đều cần đến thiên tài người phụ nữ. Cần làm thế nào để cho các phụ nữ có thể tham gia vào ngành lao động, qua việc đào tạo nghề nghiệp cho họ, cũng như tổ chức công việc cách nào để phụ nữ không mất đi nữ tính và những nghĩa vụ gia
đình (cách riêng đối với các bà
mẹ).
E. Lao động của các trẻ em (số 296)
Lao động của các trẻ em là một điều cưỡng bức. Các trẻ em chỉ được nhận vào giới lao động vào tuổi mà các em đã phát triển các sức lực thể lý, trí tuệ và luân lý (Rerum novarum, số 11). Học thuyết
xã hội tố cáo sự tăng gia nạn khai thác lao động trẻ em dưới những điều kiện làm nô lệ.
F. Di dân và lao động
1/
Hiện tượng người di dân có thể là một nguồn lợi thay vì là một ngăn trở cho sự phát triển (số 297). Hiện tượng di dân càng ngày càng gia tăng: những người gốc từ những miền nghèo khổ muốn đi tìm những điều kiện sinh sống khá hơn. Hiện tượng di dân thường bị coi như là mối đe doạ cho những nước tiên tiến, nhưng trên thực tế, những người di cư đáp ứng cho một một nhu cầu nhân công tại đây.
2/
Những nước đón tiếp cần tạo ra những điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người di dân (số 298):
quy định những điều kiện nhập cư theo tiêu chuẩn công bình, ngõ hầu có thể tìm công ăn việc làm xứng hợp cho người di dân; tránh việc bóc lột công nhân nước ngoài; tạo cơ hội đoàn tụ gia đình và hòa nhập vào xã hội. Đồng thời,
trong tầm mức có thể, các nước tiên tiến cố gắng cải thiện điều kiện sinh sống tại những nước kém mở mang, để người dân địa
phương không còn phải di cư nữa.
G. Nông dân và quyền làm việc
1/
Giới nông dân cần được quan tâm đặc biệt (số 299), vì vai trò xã
hội, văn hóa và kinh tế của họ, cũng như vì
nhu cầu
cần bảo vệ môi trường. Cần phải cải thiện tận gốc để nông nghiệp lấy lại giá trị chính
đáng của mình là nền tảng của
nền kinh tế.
2/
Tại vài quốc gia, việc tái phân chia ruộng đất trở thành khẩn trương (số 300). Sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải xóa bỏ những diện tích rộng lớn không sản xuất. Việc cải cách ruộng đất không phải là
một vấn đề chính trị,
nhưng còn là một nghĩa vụ luân lý.
V. Những quyền lợi của các công nhân
Đoạn vừa rồi nói đến quyền làm việc, đoạn này nói những quyền lợi của người làm việc. Trước tiên là bản liệt kê các quyền lợi của công nhân; kế đó là xét hai vấn đề cụ thể: lương bổng và quyền
đình công.
A. Phẩm giá các công nhân và việc tôn trọng những quyền
lợi của họ
Những quyền lợi của các công nhân, cũng như tất cả những quyền khác, dựa trên bản tính của nhân vị và trên phẩm giá siêu việt của
con người (số 301).
Một vài quyền lợi được Huấn
quyền xã hội của Giáo hội nhắc đến (LE số 19): quyền được trả lương công bằng; quyền nghỉ ngơi; quyền được sử dụng những phương pháp làm việc không thương tổn đến sự toàn vẹn luân lý và thể lý; quyền không bị cưỡng bức về lương tâm và nhân phẩm; quyền được trợ cấp khi thất nghiệp, đau ốm, già cả, bị tai nạn
lao động; quyền được hưởng những biện pháp xã hội liên quan đến thời kỳ sinh con; quyền
được hội họp và lập hội.
Những quyền này bị vi phạm khi:
trả lương thấp kém; không được che chở; không có đại biểu để tranh đấu quyền lợi; những điều
kiện làm việc thiếu nhân
đạo.
B. Quyền được trả lương công bằng và phân chia lợi tức
1/
Lương bổng là dụng cụ quan trọng nhất để thực hiện công bằng trong các tương quan lao động (số 352). Tiền lương được gọi là công bằng căn cứ vào công tác và kết quả của người thợ; tình hình của doanh nghiệp và công ích. Tiền lương công bằng cũng phải lưu ý đến chiều kích gia đình, bảo đảm cho gia đình một đời sống xứng đáng về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa và tinh thần. Sự thoả thuận giữa người chủ và người thợ chưa đủ để ấn định tiền lương công bằng. Sự công bằng tự nhiên thì đi trước và ở trên sự tự
do kết ước.
2/
Nền kinh tế thịnh vượng của một quốc gia còn được đo lường bằng sự công bằng trong việc phân phối lợi tức (số 303). Sự phân phối lợi tức cách công bằng dựa trên những tiêu chuẩn sau đây: công bằng giao hoán; công bằng
xã hội, xét đến giá trị khách quan của những sự đóng góp công sức lao động, phẩm giá của người
thợ; những công trạng
và nhu cầu của mỗi người công dân.
C. Quyền đình công
Học
thuyết xã hội
nhìn nhận tính cách hợp pháp của việc đình công (số 304). Đây là giải pháp hợp pháp sau khi các phương án giải quyết tranh chấp không có hiệu quả. Thể thức đình công phải có tính cách ôn hòa để tranh đấu quyền lợi. Việc đình công không phù hợp với luân lý khi nhắm đến các mục tiêu không trực tiếp liên quan đến
điều kiện làm việc, hoặc đi ngược lại với công ích.
VI.
Tình liên đới giữa các công nhân
Đoạn này tiếp nối
tư tưởng của đoạn trước: trong số những quyền lợi của các công nhân, có quyền thành lập hiệp hội (nghiệp đoàn)
để bảo vệ các quyền lợi ấy.
A. Tầm quan trọng của các nghiệp
đoàn
1/
Khi theo đuổi mục tiêu cụ thể nhằm phục vụ công ích, các tổ chức nghiệp đoàn góp phần vào việc xây dựng trật tự xã hội và tình liên đới (số 306). Lý do hiện hữu của các nghiệp đoàn là: bảo vệ các quyền lợi chính đáng của các công nhân; xây dựng tình liên đới và trật
tự xã hội.
2/
Những tương quan giữa các công nhân phải dựa trên sự hợp tác (số 306). Vì thế cần loại bỏ sự hận thù và tranh đấu nhằm diệt trừ giới tư bản. Các nghiệp đoàn không phải là những người phát ngôn của cuộc đấu tranh giai cấp để giật lấy quyền cai trị. Các nghiệp đoàn là những người
tranh đấu cho công bằng xã hội, tranh
đấu cho quyền lợi các công nhân.
3/
Ngoài ra, các nghiệp đoàn còn đóng vai trò đại diện nhắm đến việc tổ chức đời sống kinh tế (số 307). Các nghiệp đoàn cũng có vai trò đào tạo lương tâm xã hội cho các công nhân để phục vụ công ích. Các nghiệp đoàn cũng có thể nhắc nhở chính quyền để họ biết quan tâm đến các công nhân. Tuy nhiên các nghiệp đoàn
không phải là đảng phái chính trị, và không nên gắn chặt với các đảng phái.
B. Những hình thức mới của tình liên đới
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các nghiệp đoàn được mời gọi hoạt động theo những
hình thức mới (số 308):
những hình thức hợp đồng mới, có thời hạn; việc sát nhập các doanh
nghiệp với hậu quả gây ra cho quyền làm việc của các công nhân; quyền lợi của những người di dân, vv… Vì thế cần chú
trọng đến giá trị chủ thể
của
lao động, chứ không chỉ nhằm đến ích lợi kinh tế, lợi nhuận.
VII. Những điều mới “Res novae” trong thế giới lao
động
Đoạn này nói đến những viễn tượng mới được mở ra do những hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay. Nhiều điều có thể bổ túc thêm ở
thông điệp Caritas in veritate.
A. Một chặng chuyển tiếp lịch sử
1/
Những sự thay đổi trong việc tổ chức việc làm và hiện tượng toàn cầu
hoá (số 310).
-
Vài đặc trưng của toàn cầu hóa: Những hình thức sản xuất mới; Chuyển dời các cơ xưởng sang những khu vực địa lý xa với các cơ quan giữ quyền quyết định điều hành;
Sự xa cách giữa nơi sản
xuất và nơi tiêu thụ
-
Những yếu tố thuận lợi cho sự toàn cầu hoá: Tốc độ giao lưu trong không gian và
thời gian; sự vận chuyển dễ dàng về
nhân lực và tài sản.
-
Hậu quả: Sự xa cách giữa tư bản với điều kiện xã hội tại nơi sản
xuất.
2/
Một trong những đặc trưng
quan trọng nhất của việc tổ chức lao động mới mẻ là sự phân tán về thể lý của chu trình
sản xuất (số 311). Mục tiêu là đạt được hiệu năng và lợi nhuận cao hơn. Hậu quả là sự chuyển
biến các yếu tố không
gian - thời gian đưa đến sự thay đổi
trong cơ cấu làm việc.
Từ đó gây ra nhiều sự thay
đổi các cá nhân và cộng đoàn xét về vật chất, văn hoá, các giá trị. Thách đố đặt ra vào thời buổi hôm nay cũng có thể sánh được với thời buổi đầu tiên của cuộc cách mạng kỹ nghệ.
3/
Vì thế cần phải quan tâm đến việc định hướng các hoạt động xã hội
và chính trị dựa theo những cách thức
mới của việc tổ chức
lao động (số 312): thị trường tự do; cổ võ sự cạnh tranh; tăng gia những doanh
nghiệp chuyên về cung cấp các
sản phẩm và dịch vụ.
4/
Hiện đang có sự chuyển dạng từ một nền kinh tế kỹ nghệ sang một nền kinh tế chú trọng đến các dịch vụ và các đổi mới kỹ thuật (số 313). Do những đổi mới kỹ thuật, nảy sinh nhiều nghề mới, và biến đi một số nghề khác. Mô hình kinh tế và xã hội cổ điển gắn với doanh nghiệp lớn; ngày nay ta thấy nảy sinh những nghề nghiệp mới trong lãnh vực
các dịch vụ.
5/
Việc tổ chức lao động trước đây mang tính cố định vững bền dựa trên hợp đồng; ngày nay đã nhường chỗ cho những việc làm linh động, ngắn hạn (số 314). Tình trạng gây ra sự mất ổn định về việc làm: nạn thất nghiệp trở thành nếp bởi vì khó lựa chọn việc làm thích hợp; các chế độ bảo hiểm lao động cũng trở thành bấp bênh. Tại các nước đang phát triển, tình trạng này còn trở thành tồi tệ hơn, bởi vì thiếu những hệ thống huấn nghệ, thiếu những luật pháp
bảo vệ công nhân, thiếu hệ thống bảo hiểm.
6/
Sự phân tán tiến trình sản xuất tạo ra nhiều doanh
nghiệp cỡ nhỏ hay cỡ trung bình bên cạnh ngành thủ công nghệ cổ truyền (số 315). Các hoạt động mới phát sinh những công việc tự lập, với những rủi ro của nó. Các doanh nghiệp nhỏ tạo ra bầu không khí thân mật
hơn, với nhiều sáng kiến hơn; nhưng cũng mang nhiều rủi ro hơn, vì tính cách bấp bênh của nó.
7/
Tại các nước đang phát triển,
nảy ra nhiều hoạt động “ngầm” (chui), với nhiều hứa hẹn kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề về luân lý và pháp lý (số 316):
mức sản xuất thấp,
lợi tức cũng thấp, không đủ bảo đảm
nhu cầu sinh sống cho gia đình.
B. Giáo huấn xã hội và thực trạng mới (res novae)
1/
Đứng trước những sự thay đổi này, cần phải tránh sự sai lầm khi cho rằng những thay đổi này xảy đến cách tất định (số 317). Yếu tố quyết định các sự
thay đổi này luôn luôn là con người.
Con người cần đảm nhận trách nhiệm quản lý các sự canh tân thay đổi hiện nay nhằm để giúp cho sự thăng tiến các cá nhân, gia đình, xã hội và toàn thể gia đình nhân loại. Cần phải dành chỗ ưu tiên cho chiều
kích chủ thể của lao động.
2/
Những nhu cầu cụ thể và khẩn trương của con người vượt lên trên những phạm trù thuần tuý kinh tế (số 318). Những lý giải về hoạt động sản xuất theo kiểu máy móc và kinh tế đã bị bắt bẻ do sự phân tích khoa học của các vấn đề gắn liền với lao động. Lao động là một hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Các nhu cầu của con người không chỉ giới hạn vào sự chiếm hữu; bản chất và ơn
gọi của con người còn
duy trì liên hệ với Đấng Siêu Việt.
3/
Trước nguy cơ của sự giày xéo các quyền lợi căn bản, cần phải nghĩ ra những hình thức liên đới mới (số 319): giữa các thể chế quốc gia và quốc tế, giữa nền kinh tế cũ và mới; giữa sự canh tân kỹ thuật và nhu cầu bảo vệ lao động; giữa sự tăng trưởng kinh tế
và sự phù hợp với môi trường.
4/
Các nhà khoa học và những nhà trí thức được mời gọi hãy góp phần vào việc tìm ra những giải pháp công bằng (số 320): vạch ra những cơ may và rủi ro trong các sự thay đổi; đề nghị những đường hướng hoạt động để hướng dẫn sự thay đổi theo chiều
hướng thuận lợi cho sự phát triển của toàn thể gia đình nhân loại, nhờ
những chính sách kinh tế.
5/
Đứng trước tình thế mất quân bình hiện nay, cần tái lập hệ trật tự các giá trị, đặt phẩm giá của con người lên hàng đầu (số 321). Cần phải xúc tiến tiến trình phát triển tình liên đới ở tầm mức thế giới, như điều kiện sống còn của các dân tộc. Cần phải toàn cầu hóa tình liên đới, làm sao để cho con người trở thành chủ động chứ không phải
là công cụ của các sự thay
đổi.
6/ Khung cảnh toàn cầu hóa hiện nay mở ra một viễn tượng đề cao khuynh
hướng tự nhiên
của con người là muốn thiết lập những tương quan (số 322).
Cần khẳng định rằng tiên vàn chiều kích hoàn vũ thuộc về con người, chứ không phải về đồ vật. Kỹ thuật có thể là nguyên nhân dụng cụ cho sự toàn cầu hóa, nhưng nguyên nhân đệ nhất phải là tính toàn cầu của gia đình nhân loại. Lao động cũng mang một chiều kích hoàn vũ (toàn cầu). Bên cạnh những khía cạnh tiêu cực của hiện tượng toàn cầu hoá, chúng ta nên nhận ra những khía cạnh tích cực được mở ra, đó là tình liên đới của thế giới lao động. Con người càng ý thức hơn ơn gọi liên đới hoàn vũ của mình.
C. Quyền đình công
Học
thuyết xã hội
nhìn nhận tính cách hợp pháp của việc đình công (số 304). Đây là giải pháp hợp pháp sau khi các phương án giải quyết tranh chấp không có hiệu quả. Thể thức đình công phải có tính cách ôn hòa để tranh đấu quyền lợi. Việc đình công không phù hợp với luân lý khi nhắm đến các mục tiêu không trực tiếp liên quan đến
điều kiện làm việc, hoặc đi ngược lại với công ích.
VIII. Tình liên đới giữa các công nhân
Đoạn này tiếp nối
tư tưởng của đoạn trước: trong số những quyền lợi của các công nhân, có quyền thành lập hiệp hội (nghiệp đoàn)
để bảo vệ các quyền lợi ấy.
A. Tầm quan trọng của các nghiệp
đoàn
1/
Khi theo đuổi mục tiêu cụ thể nhằm phục vụ công ích, các tổ chức nghiệp đoàn góp phần vào việc xây dựng trật tự xã hội và tình liên đới (số 306). Lý do hiện hữu của các nghiệp đoàn là: bảo vệ các quyền lợi chính đáng của các công nhân; xây dựng tình liên đới và trật
tự xã hội.
2/
Những tương quan giữa các công nhân phải dựa trên sự hợp tác (số 306). Vì thế cần loại bỏ sự hận thù và tranh đấu nhằm diệt trừ giới tư bản. Các nghiệp đoàn không phải là những người phát ngôn của cuộc đấu tranh giai cấp để giật lấy quyền cai trị. Các nghiệp đoàn là những người
tranh đấu cho công bằng xã hội, tranh
đấu cho quyền lợi các công nhân.
3/
Ngoài ra, các nghiệp đoàn còn đóng vai trò đại diện nhắm đến việc tổ chức đời sống kinh tế (số 307). Các nghiệp đoàn cũng có vai trò đào tạo lương tâm xã hội cho các công nhân để phục vụ công ích. Các nghiệp đoàn cũng có thể nhắc nhở chính quyền để họ biết quan tâm đến các công nhân. Tuy nhiên các nghiệp đoàn
không phải là đảng phái chính trị, và không nên gắn chặt với các đảng phái.
B. Những hình thức mới của tình liên đới
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các nghiệp đoàn được mời gọi hoạt động theo những
hình thức mới (số 308):
những hình thức hợp đồng mới, có thời hạn; việc sát nhập các doanh
nghiệp với hậu quả gây ra cho quyền làm việc của các công nhân; quyền lợi của những người di dân, vv… Vì thế cần chú
trọng đến giá trị chủ thể
của
lao động, chứ không chỉ nhằm đến ích lợi kinh tế, lợi nhuận.
IX. Những điều mới “Res novae” trong thế giới lao
động
Đoạn này nói đến những viễn tượng mới được mở ra do những hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay. Nhiều điều có thể bổ túc thêm ở
thông điệp Caritas in veritate.
A. Một chặng chuyển tiếp lịch sử
1/
Những sự thay đổi trong việc tổ chức việc làm và hiện tượng toàn cầu
hoá (số 310).
-
Vài đặc trưng của toàn cầu hóa: Những hình thức sản xuất mới; Chuyển dời các cơ xưởng sang những khu vực địa lý xa với các cơ quan giữ quyền quyết định điều hành;
Sự xa cách giữa nơi sản
xuất và nơi tiêu thụ
-
Những yếu tố thuận lợi cho sự toàn cầu hoá: Tốc độ giao lưu trong không gian và
thời gian; sự vận chuyển dễ dàng về
nhân lực và tài sản.
-
Hậu quả: Sự xa cách giữa tư bản với điều kiện xã hội tại nơi sản
xuất.
2/
Một trong những đặc trưng
quan trọng nhất của việc tổ chức lao động mới mẻ là sự phân tán về thể lý của chu trình
sản xuất (số 311). Mục tiêu là đạt được hiệu năng và lợi nhuận cao hơn. Hậu quả là sự chuyển
biến các yếu tố không
gian - thời gian đưa đến sự thay đổi
trong cơ cấu làm việc.
Từ đó gây ra nhiều sự thay
đổi các cá nhân và cộng đoàn xét về vật chất, văn hoá, các giá trị. Thách đố đặt ra vào thời buổi hôm nay cũng có thể sánh được với thời buổi đầu tiên của cuộc cách mạng kỹ nghệ.
3/
Vì thế cần phải quan tâm đến việc định hướng các hoạt động xã hội
và chính trị dựa theo những cách thức
mới của việc tổ chức
lao động (số 312): thị trường tự do; cổ võ sự cạnh tranh; tăng gia những doanh
nghiệp chuyên về cung cấp các
sản phẩm và dịch vụ.
4/
Hiện đang có sự chuyển dạng từ một nền kinh tế kỹ nghệ sang một nền kinh tế chú trọng đến các dịch vụ và các đổi mới kỹ thuật (số 313). Do những đổi mới kỹ thuật, nảy sinh nhiều nghề mới, và biến đi một số nghề khác. Mô hình kinh tế và xã hội cổ điển gắn với doanh nghiệp lớn; ngày nay ta thấy nảy sinh những nghề nghiệp mới trong lãnh vực
các dịch vụ.
5/
Việc tổ chức lao động trước đây mang tính cố định vững bền dựa trên hợp đồng; ngày nay đã nhường chỗ cho những việc làm linh động, ngắn hạn (số 314). Tình trạng gây ra sự mất ổn định về việc làm: nạn thất nghiệp trở thành nếp bởi vì khó lựa chọn việc làm thích hợp; các chế độ bảo hiểm lao động cũng trở thành bấp bênh. Tại các nước đang phát triển, tình trạng này còn trở thành tồi tệ hơn, bởi vì thiếu những hệ thống huấn nghệ, thiếu những luật pháp
bảo vệ công nhân, thiếu hệ thống bảo hiểm.
6/
Sự phân tán tiến trình sản xuất tạo ra nhiều doanh
nghiệp cỡ nhỏ hay cỡ trung bình bên cạnh ngành thủ công nghệ cổ truyền (số 315). Các hoạt động mới phát sinh những công việc tự lập, với những rủi ro của nó. Các doanh nghiệp nhỏ tạo ra bầu không khí thân mật
hơn, với nhiều sáng kiến hơn; nhưng cũng mang nhiều rủi ro hơn, vì tính cách bấp bênh của nó.
7/
Tại các nước đang phát triển,
nảy ra nhiều hoạt động “ngầm” (chui), với nhiều hứa hẹn kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề về luân lý và pháp lý (số 316):
mức sản xuất thấp,
lợi tức cũng thấp, không đủ bảo đảm
nhu cầu sinh sống cho gia đình.
B. Giáo huấn xã hội và thực trạng mới (res novae)
1/
Đứng trước những sự thay đổi này, cần phải tránh sự sai lầm khi cho rằng những thay đổi này xảy đến cách tất định (số 317). Yếu tố quyết định các sự
thay đổi này luôn luôn là con người.
Con người cần đảm nhận trách nhiệm quản lý các sự canh tân thay đổi hiện nay nhằm để giúp cho sự thăng tiến các cá nhân, gia đình, xã hội và toàn thể gia đình nhân loại. Cần phải dành chỗ ưu tiên cho chiều
kích chủ thể của lao động.
2/
Những nhu cầu cụ thể và khẩn trương của con người vượt lên trên những phạm trù thuần tuý kinh tế (số 318). Những lý giải về hoạt động sản xuất theo kiểu máy móc và kinh tế đã bị bắt bẻ do sự phân tích khoa học của các vấn đề gắn liền với lao động. Lao động là một hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Các nhu cầu của con người không chỉ giới hạn vào sự chiếm hữu; bản chất và ơn
gọi của con người còn
duy trì liên hệ với Đấng Siêu Việt.
3/
Trước nguy cơ của sự giày xéo các quyền lợi căn bản, cần phải nghĩ ra những hình thức liên đới mới (số 319): giữa các thể chế quốc gia và quốc tế, giữa nền kinh tế cũ và mới; giữa sự canh tân kỹ thuật và nhu cầu bảo vệ lao động; giữa sự tăng trưởng kinh tế
và sự phù hợp với môi trường.
4/ Các nhà khoa học và những nhà trí thức được mời gọi hãy góp phần vào việc tìm ra những giải pháp công bằng (số 320): vạch ra những cơ may và rủi ro trong các sự thay đổi; đề nghị những đường hướng hoạt động để hướng dẫn sự thay đổi theo chiều
hướng thuận lợi cho sự phát triển của toàn thể gia đình nhân loại, nhờ
những chính sách kinh tế.
5/
Đứng trước tình thế mất quân bình hiện nay, cần tái lập hệ trật tự các giá trị, đặt phẩm giá của con người lên hàng đầu (số 321). Cần phải xúc tiến tiến trình phát triển tình liên đới ở tầm mức thế giới, như điều kiện sống còn của các dân tộc. Cần phải toàn cầu hóa tình liên đới, làm sao để cho con người trở thành chủ động chứ không phải
là công cụ của các sự thay
đổi.
6/
Khung cảnh toàn cầu hóa hiện nay mở ra một viễn tượng đề cao khuynh
hướng tự nhiên
của con người là muốn thiết lập những tương quan (số 322).
Cần khẳng định rằng tiên vàn chiều kích hoàn vũ thuộc về con người, chứ không phải về đồ vật. Kỹ thuật có thể là nguyên nhân dụng cụ cho sự toàn cầu hóa, nhưng nguyên nhân đệ nhất phải là tính toàn cầu của gia đình nhân loại. Lao động cũng mang một chiều kích hoàn vũ (toàn cầu). Bên cạnh những khía cạnh tiêu cực của hiện tượng toàn cầu hoá, chúng ta nên nhận ra những khía cạnh tích cực được mở ra, đó là tình liên đới của thế giới lao động. Con người càng ý thức hơn ơn gọi liên đới hoàn vũ của mình.
[i]
Như vậy
đối với Kinh thánh, sự làm việc là một “vinh quang”
(chứ không phải là một hình phạt)
bởi vì được cộng tác với Đấng Tạo hóa. Tuy nhiên, do tội lỗi, lao động thường bị tổn thương:
do lòng tham lam khai thác vũ trụ cách bừa bãi, hoặc coi lao động như thần tượng,
hay bóc lột sự lao động của tha nhân.
[ii]
Đây
là phương châm của luật thánh Biển-đức,
phân chia thời khóa biểu giữa thời gian phụng tự và thời gian lao động. Tuy nhiên phương
châm này cũng được giải thích theo nghĩa là con người cần phải biết hợp tác với ơn thánh
Chúa: cần biết cầu nguyện,
bởi vì tất cả mọi sự tùy thuộc vào Chúa; cần biết làm việc,
bởi vì tất cả tùy thuộc vào nỗ lực của chúng ta. Xem sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo số 2834.