Lm. P.X. Nguyễn Văn Nhứt, O.P.
“Lao Động Là Vinh Quang”
Đã có thời, sau khi nhà cầm quyền cộng sản thu tóm cả
giang sơn về một mối, khẩu hiệu này được tuyên truyền, học tập và thực hiện
trong hầu hết mọi lãnh vực của đời sống người dân, với mục tiêu tận dụng tất cả
những thành quả họ sản xuất được. Ai dốc
sức xả thân quên mình làm việc, bất kể trong nhà máy hầm hập lò nung, mịt mù
khói bụi, hay trên cánh đồng nắng xém mặt, rét cóng tay; hoặc bụng rỗng mà cứ
phải gò lưng, căng mắt đọc, ghi chép, cân đo những số liệu, những đề án, hoặc họng
khô mà vẫn gắng liên tục gào lớn trên bục giảng hay trên sân khấu… ai kiên trì
phấn đấu không ngưng nghỉ như vậy đều được “truy tặng” danh hiệu “anh hùng lao
động”.
Ngược lại, kẻ bị cáo buộc là lười biếng lao động chẳng những
phải chịu phê bình, kiểm điểm, mà còn bị
trừng phạt, bị cưỡng chế đi làm việc tay chân tại các trại lao động cải tạo.
Trong cả hai trường hợp—anh hùng lao động và tù nhân lao
động cải tạo—thật khó mà nhận ra nét hào quang của lao động, bởi vì cả hai đều
không hề được thụ hưởng một cách tương xứng thành quả công sức mình đã dốc đổ
ra, không hề được nâng cao phẩm giá của một con người có quyền tự do quyết định
về bản chất lao động, lựa chọn cách thực hiện lao động, xác lập mục đích lao động
và biện giải lý do của lao động. Rốt cuộc, họ cùng chia sẻ chung một thân phận:
thân phận của kẻ bị bóc lột lao động.
Thời ấy có một vua mới lên trị vì Ai-cập, vua nầy không
biết Ông Giu-se. Vua nói với dân mình:
“Nầy đám dân con cái Ít-ra-en đông đúc và hùng mạnh hơn chúng ta. Chúng ta hãy
dùng những biện pháp khôn ngoan đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo
khi có chiến tranh, chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ.” Người ta bèn đặt lên đầu lên cổ họ những viên
đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai; họ phải xây cho Pha-ra-ô các
thành làm kho lương thực là Phi-thôm và Ram-xết. Nhưng chúng càng hành hạ họ,
thì họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến chúng đâm ra sợ con cái
Ít-ra-en. Người Ai-cập cưỡng bách con
cái Ít-ra-en lao động cực nhọc. Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải
lao động cực nhọc; phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc đồng áng;
tóm lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ làm.[i]
Đoạn trích Sách Xuất Hành bên trên cho thấy điển hình của
thứ lao động nô dịch, hủy diệt con người cả về phương diện thể lý lẫn tinh thần.
Lao động khổ sai trở thành công cụ bóc lột kinh tế, đàn áp chính trị và âm mưu
diệt chủng.
Lao động khổ sai bắt buộc con người làm việc cật lực, dưới
biện pháp kiểm soát ngặt nghèo, kỷ luật trừng phạt tàn ác. Công nhân bị đối xử như con vật, được cho ăn
uống cầm hơi, để tái sản xuất. Mọi
chương trình kế hoạch gọi là giáo dục đào tạo thực chất chỉ nhắm làm ra những
công cụ, những cỗ máy người để phục vụ sản xuất, để cung phụng giai cấp thống
trị. Điểm dừng của dây chuyền lao động
nô dịch và bóc lột đã được ấn định ở mọi xó xỉnh đen tối nhứt để thải bỏ mọi thứ
« cặn bã xã hội », theo quy luật “vắt chanh bỏ vỏ.” Người công nhân cố kéo lê cuộc đời tàn tạ, chịu
đựng đủ mọi thứ bịnh tật nghề nghiệp, mang theo xuống nấm mồ đủ mọi thứ thương
tổn, tủi hờn, do bất công, oan ức, lừa đảo, miệt thị, và cơ man nào là những
hình thức ác tà khác.
Hệ lụy trực tiếp và hiển nhiên của lao động nô dịch là
tình trạng xuống cấp của dân trí. Công
nhân tiếp tục bị giam cầm trong tình trạng tôi mọi miên viễn, cúc cung phục dịch
giới chủ hết đời nầy đến đời khác, không bao giờ có được cơ may đổi thay số kiếp. Lao động nô dịch tước đoạt con người quyền tham gia vào công cuộc bàn bạc,
lựa chọn, quyết định và điều hành đời sống của chính mình, của gia đình, của xã
hội, và của đất nước. Thoảng hoặc, người
lao động nghèo và thất học bị lôi kéo vào cuộc chơi chính trị chỉ để làm gạch
lót đường công danh, làm bậc thang sự nghiệp, hoặc làm dê tế thần tham vọng,
cho những kẻ hoạt đầu kinh tế, những con buôn quyền lực.
Nhưng có lẽ hệ lụy xấu ác và nguy hại hơn hết của lao động
khổ sai nô dịch là đời sống gia đình của công nhân bị khủng hoảng, đổ nát và hủy
diệt. Trận cuồng phong di dân kinh tế cuốn
đi hàng triệu công nhân ra khỏi mái ấm gia đình, ra khỏi tập tục xã hội, văn
hóa, chính trị và tôn giáo truyền thống của làng mạc, quê hương, đất nước. Có mấy ai trong số dân lao động du mục ấy được
chuẩn bị—dầu chỉ là tương đối vừa đủ—để có thể hội nhập dễ dàng vào môi trường
xã hội, văn hóa chính trị và tôn giáo nơi đất khách quê người? Có mấy ai trong
số các nước chủ đầu tư sẵn sàng có chính sách đối đãi các di dân kinh tế một
cách công bình, nhân đạo và thượng tôn luật pháp?
Có rất nhiều điều khuất tất đập thẳng vào mặt, vào lương
tri của mọi người. Đó là tình trạng hàng triệu gia đình nay chỉ còn một mình
người mẹ hoặc người cha phải đơn thương độc mã chăm lo đủ hết mọi phương diện
cơm ăn, áo mặc, thuốc men, học hành, dạy dỗ con cái. Đó là tình trạng của những
đứa trẻ rất hiếm khi hoặc chẳng bao giờ được cảm nhận tình thương trìu mến của
người cha hoặc người mẹ vì sinh kế mà phải thường xuyên xa vắng gia đình. Rõ
ràng mọi người đều thấy trước, không bao lâu nữa, xã hội sẽ phải đón nhận những
con người mang đầy thương tật tâm sinh lý từ một tuổi thơ bất hạnh hoặc bị đánh
mất.
Giữa vạn nẻo đường của nhân loại, gia đình là nẻo đường
trước tiên và quan yếu nhứt. Tuy là lối đi chung cho tất cả mọi người, nhưng
gia đình là lối đi đặc biệt, độc nhứt và bất khả tái lập, cũng tương tự như mỗi
cá thể con người là bất khả tái lập; đó là lối đường con người không thể thoái
bước. Quả vậy, mỗi người thường đi vào trần thế nầy trong khuôn khổ một gia
đình, và do đó có thể nói con người chịu ơn gia đình vì đã cho mình được hiện hữu
như là một cá nhân. Khi không có gia đình, con người bước vào cuộc đời với nỗi
khắc khoải đau đớn và mất mát khôn nguôi. Tâm trạng nầy sẽ còn tiếp tục đè nặng
trên cả cuộc đời của con người ấy.[ii]
Đó là tình trạng của những công nhân di dân—đa số còn rất
trẻ—không thể tự chủ trước bao nhiêu chèo kéo của nhu cầu thụ hưởng bản năng—tự
nhiên hoặc giả tạo—tiếp tục lao vào và vướng mắc đủ thứ tật bịnh của một xã hội
tiêu thụ, vô cảm, vô luân và vô thần, cả lý thuyết lẫn thực hành. Những vấn đề
xã hội và luân lý nói trên trước tiên phát sinh tại nơi họ bị cuốn hút lại vì
miếng cơm manh áo, vì lẽ sống còn của gia đình, sau đó sẽ tiếp tục đeo bám theo
họ về với gia đình, làng mạc và đất nước của họ.
Không phải là những kẻ có trách nhiệm—chính quyền cũng
như các tập đoàn đầu tư—không thấy, không ý thức được những thảm họa xã hội tiềm
tàng nầy. Nhưng lợi nhuận quá lớn và quá dễ thu tóm khiến họ tiếp tục nuôi dưỡng
chúng, miễn là họ tự tin có thể kiểm soát, khoanh vùng và khống chế chúng bằng
bất kỳ biện pháp và công cụ nào có sẵn, kể cả bằng trấn áp và tiêu diệt.
Lao động như thế—lao động nô dịch khổ sai tuy tạo nên núi
tiền núi của, nhưng rốt cuộc lại hủy hoại chính con người—sao có thể gọi là
vinh quang?
Lao Động MangTính Nhân
Văn
Không phải lao động nào cũng mang tính nô dịch, khổ sai
và bóc lột, vì quả thật có một hình thức lao động—cả chân tay lẫn trí óc—tự bản
chất thấm đượm phẩm chất nhân văn, vừa giúp con người trở nên người hơn, vừa
nâng con người lên với Đấng Thiên Chúa Tạo Hóa.
Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi
cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Đức
Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất
đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. Đức Chúa là
Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con
người trở nên một sinh vật. Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở
Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.
Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ
cây trông thì đẹp ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết
điều thiện điều ác. Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia
thành bốn nhánh. Tên nhánh thứ nhứt là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất
Kha-vi-la là nơi có vàng; vàng ở đất nầy tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc.
Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh nầy bao quanh tất cả đất Cút. Tên nhánh thứ
ba là Tích-ra; nhánh nầy chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh thứ bốn là Êu-phơ-rát. Đức Chúa là
Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất
đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lịnh
cho con người rằng: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái của
cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn,
chắc chắn ngươi sẽ phải chết.”[iii]
Bài tường thuật của Sách Sáng Thế cho thấy rõ lao động
là một trách nhiệm con người được chính Thiên Chúa ủy thác một cách trân trọng
và đầy thương yêu, tín nhiệm. Thật sai lầm ấu trĩ khi nghĩ rằng: nếu như Tổ
Tông không phạm tội, con người vẫn tiếp tục sống nhàn nhã trong Vườn Địa Đàng,
cứ nằm há miệng chờ sung rụng, chứ đâu phải làm ăn quá vất vả như hiện nay.
Lao động đã là nghĩa vụ Thiên Chúa trao cho con người
ngay trước lúc sa ngã phạm tội. Lao động là một thành tố quan yếu trong “trọn
gói làm người” Thiên Chúa ban cho con người ngay buổi đầu sáng tạo, với đầy ắp
nghĩa tình và kỳ vọng giữa Thiên Chúa và con người.
Phải chu toàn cùng một lúc hai nhiệm vụ “cày cấy và
canh giữ” cả một cơ ngơi vũ trụ càn khôn bát ngát, vô biên vô tận như vậy không
thể là công việc nhẹ nhàng chút nào. Chắc chắn con người phải có trí để cân nhắc kế hoạch, có tâm để quyết định thi hành, có lực để hoàn thành sứ mạng, và có nghĩa để bảo tồn công trình.
Vũ trụ thủa ban sơ tựa như vùng đất trinh nguyên
đang chờ được khai phá, như cô thiếu nữ dậy thì mong được trang điểm, làm duyên
làm đẹp. Những rừng cây chưa có dấu chân
người, những thảo nguyên hầu như tiếp giáp chân trời, tựa mái tóc huyền của cô
gái, cần được quy hoạch, phân ranh rạch ròi, như gội nước, chải chuốt, rẽ ngôi,
tết gọn, và cài lên chiếc trâm nạm ngọc, kèm theo chùm hoa thiên lý thoang thoảng
làn hương kín đáo, kiêu sa.
Thiên Chúa không làm công việc này, dầu đó chỉ là
chuyện nhỏ, so với công trình xây dựng cả vũ trụ càn khôn từ hư vô tuyệt đối.
Thiên Chúa đã ủy thác công việc ấy cho con người, tác phẩm vô cùng ưng ý do
chính tay mình tác tạo như họa ảnh của mình. Con người đã hoàn thành theo đúng
như đồ án của Thiên Chúa khiến Người hết sức ưng ý hài lòng.
Những dòng sông nước trong veo soi bóng mây trời,
chở theo muôn vạn ánh trăng sao, trôi về cõi vô tận, tựa đôi mắt vừa ướt ngấn lệ
lại vừa sắc lẻm dao cau của mỹ nhân, rất cần đôi nét điểm trang để càng thêm ma
lực hốt hồn người, nhận chìm thêm nhiều trái tim lãng tử.[iv] Chính là nhờ lao động chân tay lành nghề và
lao động trí tuệ đầy sáng kiến của con người, từ chỗ đơn thuần là con kênh dẫn
nước tưới mát đất đai, có những dòng sông, những chiếc cầu, những bến đò đã
vĩnh viễn đi vào lịch sử, vào văn học, vào nghệ thuật. Những vật thể tưởng chừng vô hồn vô cảm ấy,
qua bàn tay lao động nhân văn của con người, đã trở thành một phần máu thịt quê
hương, thành một gia sản tinh thần vô giá phải bảo vệ bằng mọi cách.
Thiên Chúa không làm công việc nầy, dầu đó chỉ là
chuyện nhỏ, so với công trình xây dựng cả vũ trụ càn khôn từ hư vô tuyệt đối. Thiên Chúa đã ủy thác công việc ấy cho con
người, tác phẩm vô cùng ưng ý do chính tay mình tác tạo như họa ảnh của
mình. Con người đã hoàn thành theo đúng
như đồ án của Thiên Chúa khiến Người hết sức ưng ý hài lòng.
Những dải đất mầu mỡ, phì nhiêu, chờ được dọn, được
vỡ, được gieo trồng, để cung cấp nguồn lương thực hầu như bất tận cho muôn
loài, tựa như bầu vú căng sữa của bà mẹ[v] nuôi đàn con khỏe mạnh,
lớn khôn. Biết bao hoa màu, đa dạng về lượng cũng như về phẩm, nhờ bàn tay và
khối óc của con người, đã được thu hoạch từ ruộng đất và được chế biến thành
thiên hình vạn trạng thực đơn trên bàn ăn.
Từ đó, chẳng những chuyện đất đai đã đi vào luật lệ, định chế xã hội văn
minh, mà các sản phẩm từ đất đai cũng góp phần xây dựng nền văn hóa giao tế lễ
lạt của con người.
Từ cao thẳm Chúa đổ mưa
xuống núi,
Đất chứa chan phước lộc
của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh
nuôi sống đàn gia súc,
Làm tốt tươi thảo mộc
cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất họ kiếm ra
cơm bánh,
Chế rượu ngon cho phấn
khởi lòng người,
Xức dầu thơm cho gương mặt
sáng tươi,
Nhờ cơm bánh mà no lòng
chắc dạ.[vi]
Thiên Chúa không làm công việc này, dầu đó chỉ là
chuyện nhỏ, so với công trình xây dựng cả vũ trụ càn khôn từ hư vô tuyệt đối.
Thiên Chúa đã ủy thác công việc ấy cho con người, tác phẩm vô cùng ưng ý do
chính tay mình tác tạo như họa ảnh của mình. Con người đã hoàn thành theo đúng
như đồ án của Thiên Chúa khiến Người hết sức ưng ý hài lòng.
Dãy núi trùng trùng điệp điệp lặng lẽ ngủ buồn ngàn
năm bỗng trở mình thức giấc chào đón con người trèo lên thăm viếng, xây chùa dựng
tháp, truy tặng cho những tước hiệu cao quý, linh thiêng. Từ dạo ấy, chúng trở
thành thiên thần hộ mạng, che chở con người khỏi sức tàn phá khốc liệt của nắng
lửa mưa dầu.
Biển khơi bao đời trầm uất
dồn nén tận đáy sâu những trận sóng ngầm tàn sát một ngày kia chợt nghểnh tai
nghe nhịp mái chèo khuấy nước theo tiếng khoan hò của con người ra khơi tìm nguồn
hải sản, bỗng vỗ tay hòa điệu, hạ bớt những đợt sóng bạc đầu, và hào phóng tặng
cho con người cơ man nào là đặc sản từ kho báu đại dương. Từ lúc đó, lòng biển
được con người nhân hóa thành tấm lòng của mẹ, muôn thủa bao la dạt dào, ru con
lớn mãi trong nghĩa tình mẫu tử bất hủ, bất tận, bất diệt.[vii]
Thiên Chúa không làm công việc này, dầu đó chỉ là
chuyện nhỏ, so với công trình xây dựng cả vũ trụ càn khôn từ hư vô tuyệt đối.
Thiên Chúa đã ủy thác công việc ấy cho con người, tác phẩm vô cùng ưng ý do
chính tay mình tác tạo như họa ảnh của mình. Con người đã hoàn thành theo đúng
như đồ án của Thiên Chúa khiến Người hết sức hài lòng, toại nguyện.
Lao Động Ghi Dấu Ấn Nhân
Văn Trên Cõi Tạo Thành
Thánh Kinh cho biết: Thiên Chúa giao cho con người công
việc đặt danh tánh cho muôn loài muôn vật.[viii] Hẳn rằng đây không đơn
giản là cứ “xem mặt đặt tên”, cũng không phải hễ thực hiện được những kho dữ liệu
nghiên cứu khoa học về khoáng chất, thực vật và động vật, là coi như hoàn tất
việc dán nhãn cho chúng, mặc dầu công trình đồ sộ của các khoa học gia để hàng
triệu triệu vật thể có tên có tuổi thật rất đáng nể trọng. Thánh Ý kỳ diệu của Đấng Tạo Thành không quan
tâm đến số liệu và số lượng. Nếu cần, hễ sáng tạo ra vật thể nào thì Thiên Chúa
liền đặt tên cho vật thể đó ngay, như vậy vừa nhanh gọn, vừa chính xác, bởi lẽ
ngoài Người ra không ai biết rõ bản chất thực sự của các thụ tạo. Do đó, sự kiện
con người được Thiên Chúa ủy thác cho việc đặt danh tánh cho muôn loài phải hiểu
là Đấng Sáng Tạo muốn con người dùng đôi
tay, khối óc và con tim của
mình—những thành tố của lao động nhân văn—để thuần hóa, ký nhận và đóng dấu ấn
nhân bản lên trên toàn thể tạo thành, biến công trình sáng tạo của Thiên Chúa
thành công trình phục vụ con người.
Nhờ lao động và tính cần mẫn, con người—vốn được
phép tham gia vào tài nghệ và đức khôn ngoan của Thiên Chúa—làm cho cõi tạo
thành, cả khối vũ trụ đã được Chúa Cha định đặt, thêm xinh đẹp hơn. Con người vận dụng mọi năng lực của xã hội và
cộng đồng để gia tăng thêm công ích, trước hết và trên hết nhắm phục vụ những
người túng thiếu nhứt. Lao động nhân văn, một khi được hướng đến đức ái như mục
tiêu tối hậu, trở thành một dịp tốt để suy ngẫm, để thành tâm cầu nguyện, để tỉnh táo vươn lên, trong khắc khoải mong
chờ, đón đợi một ngày không bao giờ kết thúc.[ix]
[i]
Xh 1:8-14.
[ii]
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, “Thư Gởi
Các Gia Đình”, Daughters of Saint Paul: Pasay, 1994; số 2.
[iii]
St 2:4b-17.
[iv]
Dựa ý câu “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách,
sắc bất ba đào dị nịch nhân”, nghĩa là: mưa không cần xiềng xích mà giữ được
khách, sắc đẹp chẳng có sóng gió mà nhận chìm được người.
[v]
Do vậy mà từ “mẹ” ghép với từ “đất” (đất mẹ, quê mẹ, nhà mẹ) nghe thật gần gũi,
thân thương, nhớ nhung da diết như cào như cắt cõi lòng khi xa cách, mãi cho đến
lúc lìa đời cũng không sao quên được (trở về lòng đất mẹ).
[vi]
Tv 104:13-15.
[vii]
Xin tri ân Nhạc sĩ Y Vân đã dạy cho nhiều thế hệ con cái người Việt biết vinh
danh công ơn của mẹ: “Lòng Mẹ Bao La Như
Biển Thái Bình!”
[viii]
Xc St 2:19.
[ix]
GHXHCG, số 266.