(Sách Tóm lược HTXHCG số 541 – 574)
Nhiệm vụ của tín hữu giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa qua việc gắn bó với những công việc trần gian và sắp đặt chúng theo Thánh ý Chúa.
• Khởi Đi Từ ơn Gọi Của Các Bí Tích Khai Tâm
Bản sắc của tín hữu giáo dân được phát sinh và nuôi dưỡng bởi bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể. Bí tích Thánh Tẩy làm cho con người được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con Thiên Chúa, trưởng tử của mọi loài thụ tạo, được sai đến với tất cả như là vị Thầy và là Đấng Cứu Thế. Bí tích Thêm Sức làm cho mỗi cá nhân nên giống khuôn mẫu của Đức Kitô, Đấng được sai đến để ban sự sống mới cho công cuộc sáng tạo và cho từng hữu thể qua việc tuôn trào Thần Khí của Người. Bí tích Thánh Thể làm cho người tín hữu được tham dự vào hy tế duy nhất và hoàn hảo mà Đức Kitô dâng hiến cho Chúa Cha, bằng chính xác thân Người để cứu độ thế giới.
Người tín hữu Công giáo là những môn đệ của Đức Kitô bắt đầu với các bí tích, có nghĩa là qua những gì Thiên Chúa đã tác tạo nơi họ, ghi dấu nơi họ bằng chính hình ảnh của Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài. Chính từ quà tặng ân huệ thần linh này, chứ không phải từ sự nhượng quyền của con người, mà phát sinh ra “munus” (ân huệ và trọng trách) ba mặt, tiêu biểu cho người tín hữu giáo dân, là tiên tri, tư tế và vương giả, phù hợp với bản tính trần thế của họ.
• Ngang Qua Sự Dấn Thân Loan Báo Tin Mừng, Một Sứ Mạng Phải Chu Toàn
Bổn phận chính đáng của tín hữu giáo dân là công bố Tin Mừng bằng lời chứng gương mẫu của đời sống được ăn rễ sâu trong Đức Kitô và được sống động qua những thực tại trần thế như gia đình; sự dấn thân vào chuyên môn trong thế giới lao động, văn hoá, khoa học và nghiên cứu; việc thực hành các trách nhiệm xã hội, kinh tế và chính trị. Tất cả những thực tại con người trần thế – cả cá nhân lẫn xã hội, bao gồm những môi trường và hoàn cảnh lịch sử khác nhau, cũng như các cấu trúc và các định chế – là bối cảnh mà trong đó người tín hữu giáo dân sống và làm việc. Những thực tại này là những nơi mà người ta đón nhận được tình yêu Thiên Chúa. Sự dấn thân của họ phải phù hợp với tầm nhìn này và được nhìn nhận như một cách diễn tả lòng bác ái theo Tin Mừng. “Đối với tín hữu giáo dân, sự hiện diện và hoạt động của họ trong thế giới không chỉ là một thực tại mang tính nhân học và xã hội học, nhưng theo một cách thức đặc biệt, đó còn là một thực tại mang tính thần học và giáo hội học nữa”.
Việc làm chứng của tín hữu giáo dân được phát sinh từ ân huệ Chúa ban, được công nhận, nuôi dưỡng và dẫn tới sự trưởng thành. Động lực này làm cho sự dấn thân của họ trên thế giới có ý nghĩa và khác với những đặc tính hoạt động đặc thù của chủ nghĩa nhân bản vô thần, những đặc tính ấy không có một nền tảng tối hậu và bị đóng khung trong những giới hạn hoàn toàn thế tục. Lấy viễn cảnh cánh chung là then chốt mới có thể đem đến một sự hiểu biết đúng đắn về những thực tại con người. Từ điểm tựa là những ích lợi xác định này, tín hữu giáo dân có thể dấn thân vào hoạt động trần thế theo những tiêu chuẩn đích thực. Những mức sinh hoạt cao và năng suất kinh tế lớn hơn không phải là các chỉ báo có giá trị duy nhất để đo lường thành tựu đầy đủ của con người trong cuộc sống này, và thậm chí chúng còn kém giá trị đối với cuộc sống mai hậu, “bởi vì tầm nhìn của con người không chỉ giới hạn trong trật tự trần thế; tuy sống trong tầm mức của lịch sử nhân loại, con người vẫn bảo tồn toàn vẹn vận mệnh vĩnh cửu của mình”
• Đi Đến Những Lãnh Vực Cần Sự Dấn Thân Của Tín hữu Giáo Dân
Sự hiện diện của giáo dân trong đời sống xã hội được tiêu biểu bởi việc phục vụ, đó là dấu hiệu và sự biểu lộ của tình yêu, được thể hiện trong lĩnh vực gia đình, văn hoá, lao động, kinh tế và chính trị theo những khía cạnh đặc trưng. Tuân theo những đòi hỏi khác trong lĩnh vực lao động đặc biệt của mình, giáo dân nam nữ diễn tả sự thật của lòng tin và đồng thời cũng diễn tả sự thật của học thuyết xã hội của Giáo Hội, làm cho học thuyết này hoàn toàn trở thành một thực tại khi học thuyết ấy được sống một cách cụ thể với mục đích để giải quyết các vấn đề xã hội. Quả thật, sự tin cậy đối với học thuyết này phát xuất một cách trực tiếp từ bằng chứng của hành động hơn là tính nhất quán nội tại hoặc tính logic của nó.
Tiến vào Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của kỷ nguyên Kitô giáo, qua đời sống chứng nhân, người giáo dân sẽ cởi mở chính mình cho tất cả những ai mà cùng với họ đón nhận gánh nặng trách nhiệm về lời mời gọi khẩn thiết nhất của thời đại chúng ta. “Rút ra từ những kho tàng giáo huấn của Giáo Hội, những đề nghị của Công Đồng này nhắm tới tất cả mọi người, dù họ tin vào Thiên Chúa hoặc không nhìn nhận Ngài cách công khai; những đề nghị ấy có ý giúp họ nhận thức sâu sắc hơn về vận mệnh của mình, giúp cho lao động phù hợp hơn với phẩm giá cao quý của con người, giúp phấn đấu để có một cảm thức sâu đậm hơn về tình huynh đệ phổ quát và giúp đáp ứng những yêu cầu khẩn thiết của thời đại chúng ta với một nỗ lực quảng đại và phổ biến của tình yêu”
Phục vụ con người: Trong những lĩnh vực dấn thân xã hội của giáo dân, việc phục vụ con người chiếm ưu thế hàng đầu. Cổ vũ cho phẩm giá của mọi người, tài sản quý nhất của những con người, nam cũng như nữ, là “nhiệm vụ thiết yếu, hiểu theo một nghĩa nào đó, là nhiệm vụ trọng tâm và thống nhất của việc phục vụ mà Giáo Hội, và giáo dân trong Giáo Hội, được mời gọi để thể hiện cho gia đình nhân loại”
Hình thức thứ nhất, trong đó nhiệm vụ được thực hiện, bao gồm sự dấn thân và những nỗ lực đổi mới chính mình từ bên trong. Chính từ sự chuyển biến của các tâm hồn mà nảy sinh ra mối quan tâm đến những người khác để yêu thương họ như anh chị em mình.
Cổ vũ phẩm giá con người trên hết ngụ ý việc xác định tính bất khả xâm phạm của quyền được sống, từ khi được thụ thai cho đến lúc chết một cách tự nhiên, là quyền thứ nhất trong các quyền lợi và là điều kiện cho tất cả các quyền khác của con người. Hơn nữa, tôn trọng nhân phẩm đòi buộc phải nhìn nhận chiều hướng tôn giáo của con người. “Đây không chỉ đơn giản là một đòi buộc ‘liên quan đến những vấn đề của niềm tin’, mà còn là một đòi buộc không thể tách biệt ra khỏi thực tại cá nhân của con người”. Sự nhìn nhận hữu hiệu về quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo là một trong những di sản cao quý nhất và là một trong những bổn phận quan trọng nhất của mỗi dân tộc muốn bảo đảm thiện ích của cá nhân và xã hội. Trong bối cảnh văn hoá hiện nay, nhu cầu đặc biệt khẩn thiết là nhu cầu bảo vệ hôn nhân và gia đình, muốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu này, người ta phải xác tín về giá trị duy nhất và riêng biệt của hai thực tại đó đối với sự phát triển đích thực của xã hội loài người.
Phục vụ trong lĩnh vực văn hoá: Văn hoá phải là lĩnh vực ưu tiên cho sự hiện diện và dấn thân của Giáo Hội và các cá nhân Kitô hữu. Công đồng Vatican II nhận thấy sự tách rời của niềm tin Kitô giáo với đời sống hằng ngày như là một trong những sai lạc trầm trọng nhất của thời đại chúng ta. Cần phải ghi nhớ rằng “nhờ văn hoá, con người, với tư cách là người, sẽ trở thành người hơn, và một khi “là” người hơn như thế, thì cũng làm cho sự hiện hữu có giá trị hơn. Cổ vũ một nền văn hoá xã hội và chính trị được gợi hứng từ Tin Mừng phải là một phạm vi hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối với tín hữu giáo dân.
Sự hoàn hảo trọn vẹn của con người và thiện ích của toàn thể xã hội là những cứu cánh thiết yếu của nền văn hoá; vì vậy chiều hướng đạo đức của văn hoá là một ưu tiên trong sinh hoạt xã hội của người tín hữu giáo dân. Không chú ý đến chiều hướng này sẽ dễ dàng biến văn hoá thành một công cụ làm nghèo nhân loại. Nền văn hoá có thể trở nên cằn cỗi và đi đến suy đồi khi nó “chỉ hướng về bên trong và cố gắng duy trì những lối sống lỗi thời qua việc từ chối bất cứ trao đổi hay thảo luận nào có liên quan đến sự thật về con người”.
Sự tham gia về mặt xã hội và chính trị của giáo dân trong lĩnh vực văn hoá ngày nay đang chuyển biến theo những hướng chuyên biệt. Trước tiên là cố gắng bảo đảm quyền có một nền văn hoá nhân bản và dân sự cho mỗi con người, “phù hợp với phẩm giá của con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, quốc gia, tôn giáo hoặc những hoàn cảnh xã hội”
Thách đố lớn cho sự dấn thân Kitô giáo liên quan đến nội dung của văn hoá, đó là sự thật. Vấn đề sự thật là cốt lõi của văn hoá vì vấn đề này nằm trong bổn phận của mỗi con người là phải duy trì một sự hiểu biết về con người toàn vẹn, trong đó các giá trị về trí tuệ, ý chí, lương tâm và tình huynh đệ là những nét nổi bật
Phục vụ trong lĩnh vực kinh tế: Đối diện với những phức tạp của bối cảnh kinh tế ngày nay, tín hữu giáo dân sẽ được các nguyên tắc của Huấn Quyền về xã hội dẫn dắt trong những hành động của họ. Nhất thiết phải biết đến và chấp nhận các nguyên tắc này trong chính lĩnh vực hoạt động kinh tế. Khi không biết đến các nguyên tắc ấy, trên hết là nguyên tắc con người phải là trọng tâm của mọi hoạt động kinh tế, thì phẩm chất của hoạt động kinh tế bị tổn thương.
Sự dấn thân của các Kitô hữu cũng sẽ được diễn tả thành một nỗ lực tư duy có tính văn hoá mà mục tiêu là phân định những mô hình phát triển kinh tế và xã hội đương thời. Giản lược chủ đề phát triển hoàn toàn vào vấn đề kỹ thuật sẽ tước đoạt nội dung đích thực của phát triển, một nội dung liên quan đến “phẩm giá của các cá nhân và dân tộc”.
Các nhà kinh tế, những người làm việc trong lĩnh vực này và những nhà lãnh đạo chính trị phải ý thức được nhu cầu cấp bách là phải xem xét lại nền kinh tế, một mặt là xét đến sự nghèo túng bi thảm về vật chất của hàng tỷ người, và mặt khác, xét đến một sự thật là “các cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá hiện nay không được trang bị đầy đủ để đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển chính đáng”. Những yêu cầu hợp lý về năng suất kinh tế cần phải làm cho hài hoà hơn với những yêu cầu tham gia chính trị và công bằng xã hội. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa là sự liên đới phải là thành phần không thể thiếu trong mạng lưới lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế, chính trị và xã hội mà tiến trình toàn cầu hoá hiện nay đang có khuynh hướng củng cố. Trong nỗ lực xem xét lại này, người ta thấy các thực thể kinh tế được tổ chức tốt và đang mang lại hiệu quả, các hiệp hội có nguồn cảm hứng Kitô giáo năng động trong lĩnh vực kinh tế – chẳng hạn như các tổ chức công nhân, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà kinh tế – đóng một vai trò quý giá.
Phục vụ trong lĩnh vực chính trị: Đối với tín hữu giáo dân, việc tham gia vào chính trị là một hành động thích đáng và đòi hỏi nhiều nỗ lực để biểu lộ sự dấn thân của Kitô hữu trong việc phục vụ người khác. Việc theo đuổi công ích trong tinh thần phục vụ, việc phát triển công lý với sự quan tâm đặc biệt đến những tình trạng đói nghèo và đau khổ, việc tôn trọng quyền tự trị của các thực tại trần thế, nguyên tắc bổ trợ, việc cổ vũ đối thoại và hoà bình trong bối cảnh của tình liên đới: đó là những tiêu chuẩn phải gợi hứng cho người giáo dân trong hoạt động chính trị của họ. Tất cả các tín hữu, trong tư cách là người có quyền lợi và bổn phận công dân, đều buộc phải tuân thủ những nguyên tắc hướng dẫn này. Còn những ai đang nắm giữ những vị trí trong các tổ chức xử lý các vấn đề phức tạp thuộc lĩnh vực công, bất kể trong bộ máy hành chính địa phương hay trong những cơ quan quốc gia và quốc tế, cần phải quan tâm đặc biệt để tuân thủ các nguyên tắc đó.
Đối mặt với những tình huống liên quan tới những bổn phận căn bản và hết sức cần thiết của luân lý, cần nhắc lại rằng việc làm chứng của Kitô hữu được coi là một bổn phận nền tảng, bổn phận này thậm chí có thể dẫn tới việc hy sinh mạng sống mình, tới việc tử vì đạo nhân danh tình yêu và phẩm giá con người. Lịch sử của 20 thế kỷ đã qua, cũng như thế kỷ vừa qua, đầy dẫy những vị tử vì đạo cho sự thật Kitô giáo. Họ là những chứng nhân của niềm tin, của hy vọng và tình yêu được xây dựng trên nền tảng Tin Mừng. Ân phúc tử vì đạo là một bằng chứng của người được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh, biểu hiện bằng hình thức cao cả nhất là đổ máu mình ra theo đúng giáo huấn của Tin Mừng: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi... nó sẽ sinh nhiều bông hạt”.
Sự dấn thân về mặt chính trị của những tín hữu Công giáo thường được đặt trong bối cảnh “quyền tự chủ” của Nhà Nước, nghĩa là phân biệt giữa các lĩnh vực chính trị và tôn giáo. Sự phân biệt ấy “là một giá trị mà Giáo hội Công giáo đã đạt được và nhìn nhận, và thuộc về di sản của một nền văn minh hiện đại”. Tuy nhiên, học thuyết xã hội bác bỏ một cách rõ ràng những viễn tượng của quyền tự chủ được hiểu theo nghĩa độc lập với luật luân lý: “Sự ‘tự chủ’ này trước tiên quy chiếu tất cả về thái độ của con người tôn trọng những sự thật phát xuất từ sự hiểu biết tự nhiên có liên quan đến đời sống con người trong xã hội, ngay cả khi những sự thật ấy có thể được dạy bởi một tôn giáo riêng biệt, vì sự thật là chỉ có một”. Việc chân thành truy tìm sự thật, sử dụng những phương tiện hợp pháp nhằm đẩy mạnh và bảo vệ những sự thật luân lý liên quan đến đời sống xã hội – công lý, tự do, tôn trọng sự sống và những quyền lợi của người khác – là một quyền lợi và bổn phận của mọi thành viên của cộng đồng xã hội và chính trị.
Nguyên tắc tự chủ liên quan đến việc Nhà Nước phải tôn trọng mọi niềm tin tôn giáo, sự tôn trọng này “bảo đảm cho những cộng đồng tín hữu được tự do thi hành những sinh hoạt nghi lễ tâm linh, văn hoá và bác ái của mình. Trong một xã hội đa nguyên, thế tục là một nơi dành cho sự giao lưu giữa những truyền thống tâm linh khác nhau với Nhà Nước”. Tiếc thay, ngay cả trong xã hội dân chủ, vẫn còn những biểu hiện bất bao dung mang tính thế tục, thù nghịch đến độ từ chối bất cứ hình thức nào liên quan đến niềm tin tôn giáo về mặt chính trị và văn hoá. Một sự bất bao dung như thế tìm cách khai trừ hoạt động của các Kitô hữu ra khỏi các lĩnh vực xã hội và chính trị, vì những Kitô hữu cố gắng gìn giữ những sự thật được Giáo Hội chỉ dạy và tuân thủ bổn phận luân lý để hành động cho phù hợp với lương tâm của họ. Những thái độ thù nghịch đó thậm chí đã tiến xa tới mức phủ nhận cách cực đoan nền tảng của luân lý tự nhiên. Sự phủ nhận này là dấu hiệu báo trước sự hỗn loạn về luân lý với hậu quả đương nhiên là kẻ mạnh sẽ lấn át người yếu, điều đó không thể được chấp nhận dưới bất cứ hình thức nào bởi chủ nghĩa đa nguyên hợp pháp, vì nó làm xói mòn những nền móng thực sự của xã hội loài người. Trong sự hiểu biết tình trạng của những sự việc này, “việc gạt Kitô giáo ra bên lề… không báo trước điềm hay cho tương lai hay cho sự đồng thuận giữa các dân tộc; thực ra, nó còn đe doạ chính những nền tảng tinh thần và văn hoá của nền văn minh”
Một lĩnh vực đặc biệt cho sự phân định về phía tín hữu giáo dân liên quan tới việc lựa chọn những phương tiện chính trị, nghĩa là việc làm thành viên trong một đảng phái hay trong những hình thức tham gia chính trị khác. Đây phải là một lựa chọn nhất quán với các giá trị và lưu tâm đến những hoàn cảnh hiện nay. Trong bất cứ trường hợp nào, mỗi lựa chọn được thực hiện phải bắt nguồn từ lòng bác ái và hướng tới việc đạt được công ích. Một thực thể chính trị duy nhất khó có thể đáp ứng đầy đủ những mối quan tâm của niềm tin Kitô giáo; việc yêu cầu một đảng phái hay một liên minh chính trị đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi của niềm tin hoặc của đời sống Kitô hữu có thể làm tăng lên những sai lầm nguy hiểm. Các Kitô hữu không thể tìm được một đảng phái hoàn toàn phù hợp với tất cả những yêu cầu đạo đức phát xuất từ niềm tin và từ tư cách là thành phần trong Giáo Hội. Sự gắn bó của họ với một tổ chức chính trị sẽ không bao giờ mang tính ý thức hệ nhưng luôn với tinh thần phê phán; bằng cách này, đảng phái và chính trường của đảng phái sẽ được thúc bách để càng ý thức hơn trong việc đem đến công ích thật sự, bao gồm cả cứu cánh thiêng liêng của con người.
Cần phải phân biệt một bên là những đòi hỏi của niềm tin và những lựa chọn chính trị - xã hội, và bên kia là những lựa chọn được thực hiện bởi các cá nhân Kitô hữu và cộng đồng tín hữu với đầy đủ tư cách của nó. Sự phân biệt ấy có nghĩa là việc gia nhập làm thành viên trong một đảng phái hoặc trong một liên minh chính trị phải được coi như một quyết định cá nhân, mang tính hợp pháp ít là trong giới hạn của các đảng phái và của những lập trường không đối nghịch với niềm tin và các giá trị Kitô giáo. Tuy nhiên, việc chọn lựa một đảng phái, một liên minh chính trị, và cả những con người mà cuộc sống công chúng được trao phó cho họ tuy có liên quan đến lương tâm của mỗi người, nhưng không bao giờ có thể là một lựa chọn hoàn toàn cá nhân. “Đây là việc của cộng đồng Kitô hữu để phân tích một cách khách quan tình trạng đặc biệt của riêng đất nước họ, để chiếu rọi lên tình trạng đó ánh sáng của lời bất diệt là chính Tin Mừng và để rút ra từ giáo huấn xã hội của Giáo Hội những nguyên tắc tư duy, những tiêu chuẩn phán đoán và những hướng dẫn cho hành động”. Trong bất cứ trường hợp nào, “không ai được phép khẳng định rằng ý kiến của riêng mình chính là ý kiến của thẩm quyền trong Giáo Hội”; các tín hữu tốt hơn là nên “cố gắng hướng dẫn nhau qua đối thoại chân thành trong tinh thần bác ái hỗ tương và với mối bận tâm lo tìm công ích trước tiên.
Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng