Lm.
Giu-se Phan Tấn Thành, O.P.
DẪN
NHẬP
Tôi
xin bắt đầu với câu chuyện từ ngữ: “thương
xót” là gì? Câu trả lời đơn giản nhất là: “thương xót” là danh từ
tương đương với “misericordia”
trong tiếng Latinh (mercy
tiếng Anh). Thế nhưng có hai khó khăn được đặt lên liên quan đến
việc dịch thuật. Một đàng, từ tiếng Latinh sang tiếng Việt: “misericordia” có thể
chuyển dịch ra nhiều từ khác nhau; đàng khác, tiếng Latinh “misericordia” bắt nguồn
từ nhiều từ ngữ khác nhau trong tiếng Hipri của Cựu ước và tiếng Hy-lạp của Tân
ước. Như vậy, chúng ta gặp phải ba điểm khó khăn khi dịch thuật: từ tiếng
Latinh sang tiếng Việt, và từ hai ngôn ngữ của Kinh Thánh sang tiếng Latinh.
1. Trước hết, từ tiếng Latinh sang tiếng Việt
Chúng
ta hãy lấy vài thí dụ từ bản dịch Kinh Thánh của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
Thánh vịnh 136[2]
là một bài ca ngợi các kỳ công của Thiên Chúa trong lịch sử; sau mỗi câu xướng,
cộng đoàn lặp lại điệp khúc: “Quoniam
in aeternum misericordia eius”, được dịch là: “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương”. Thánh vịnh 89 mở đầu bằng lời “misericordias Domini in aeternum cantabo”,
được dịch là: “Tình thương
Chúa đời đời con ca tụng”. Ở Thánh vịnh 103, 8: ”Miserator et misericors Dominus:longanimis,
et multum misericors”, được dịch là: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu
tình thương”. Trong Thánh vịnh 130 (kinh Vực sâu): “quia apud Dominum misericordia et copiosa eius
redemptio”, được dịch là: “bởi
Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa”. Thánh
vịnh 51 mở đầu với lời cầu: “Miserere
mei Deus, secundum misericordiam tuam”, được dịch là: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót
thương con”. Câu 11 nổi tiếng của Thánh vịnh 85: “Misericordia et veritas obviaverunt
sibi: justitia et pax sese osculentur”, được dịch là: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa
bình công lý đã giao duyên”.
Trong
Tin Mừng Nhất Lãm, khi nói về các mối phúc, câu nói của Mt 5,7: “Beati misericordes, qui ipsi
misericordiam consequuntur”, được dịch là: “phúc thay ai xót thương người, họ sẽ
được Thiên Chúa xót thương”; và Mt 9,12: “Misericordiam volui et non
sacrificium”, được dịch là: “Ta
muốn lòng nhân chứ không thích hy tế”; còn câu nói Lc 6,36: “Estote misericordes sicut et Pater
misericors est”, được dịch là: “Anh
em hãy tỏ lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”.
Mỗi
ngày, phụng vụ ca tụng “misericordia”
của Thiên Chúa qua hai bài thánh ca Tin Mừng “Benedictus”
và “Magnificat”.
Trong thánh ca giờ Kinh Sáng, từ “misericordia”
được dịch hai cách khác nhau: “ad
faciendam misericordiam cum patribus nostris”, được dịch là “sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên”;
còn “per viscera
misericordiae Dei nostri nos visitavit Oriens ex alto”, được dịch
là “Thiên Chúa ta đầy lòng
trắc ẩn, cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm ta”. Trong thánh
ca giờ Kinh Chiều, cả hai lần “misericordia”
thì lại đều được dịch là “thương
xót”: “Đời nọ
tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người... Chúa nhớ lại lòng
thương xót dành cho tổ phụ Abraham”.
Một
thí dụ khác để kết thúc phần này. Trong kinh Lạy Nữ Vương, Đức Maria được kêu
cầu như là “mater
misericordiae”. Bản dịch cổ truyền là: “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành”; bản dịch của
nhóm PVGK là: “Kính chào Đức
Nữ Vương, Bà là mẹ xót thương”; bài ca quen thuộc của linh mục Kim
Long là: “Chúng con kính
chào Nữ Vương Mẹ nhân ái”. Cùng một từ “misericordia”, vậy mà có ba cách dịch khác
nhau: “nhân lành”,
“xót thương”, “nhân ái”, và dĩ nhiên
cũng có thể dịch là “Mẹ từ
bi”, như đầu đề của một số bài ca. Sau cùng, trong kinh “mười bốn thương người”
thì được gọi là “các việc từ
thiện”,[3]
đang khi nguyên bản Latinh là “opera
misericordiae”.
Tóm
lại, tuy rằng từ “misericordia”
quen dịch là “thương xót”,
nhưng cũng có thể dịch là: “từ
bi”, “từ ái”,
“từ thiện”, “nhân hậu”, “nhân từ”, “tình thương”, “trắc ẩn”, “lân tuất”. Phải chăng các
từ này có đồng nghĩa với nhau? Nếu chỉ dựa theo tầm nguyên, xem ra các ý nghĩa
của các từ này không khác nhau cho lắm.[4]
Nhưng đó mới chỉ là khái niệm sơ lược. Một câu hỏi được đặt ra: “thương xót” khác với “tình thương” ở chỗ nào?
Chúng ta sẽ trở lại với vấn đề này khi phân tích các bản văn Kinh Thánh.
2. Tiếng Latinh Trong
tiếng Latinh, “misericordia”,
thường được giải thích theo tầm nguyên là ghép bởi “miserum” và “cor”: trái tim xúc động trước nỗi khổ của
người khác.[5]
Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, “misericordia”
được dùng để dịch nhiều từ ngữ với ý nghĩa khác nhau trong tiếng Hipri và
Hy-lạp.
a/. Tiếng Hipri, có hai từ chính: “hesed” và “rachamim”. “Hesed” bao hàm tình
thương mang theo sự trung tín dựa trên một lời hứa, ra như có suy xét. “Rachamim”, trắc ẩn, cảm
thông, dịu dàng, âu yếm, gắn với “rechem”
(bụng dạ, lòng ruột), ra như muốn nêu bật tình cảm tự nhiên phát
xuất từ liên hệ ruột thịt. Có thể ví hai từ này với hai thứ tình cảm, một bên
là của cha, một bên là của mẹ; một bên căn cứ trên nghĩa vụ, một bên xuất phát
từ bản tính.[6]
b/. Tiếng Hy-lạp có ba từ:
-
“éleos”: diễn tả
thái độ cảm thông (động từ elein,
tỏ lòng thương xót; tính từ eleêmon,
biết thương xót; eleêmosyne việc
từ thiện), được dùng để dịch hesed;
-
“splanchna”: gắn
liền với lòng dạ, nơi xảy ra thái độ ấy (tương đương với rehamim trong Hipri) và
động từ splanchnízomai
(tỏ ra cảm thông);
-
“oiktirmos” (danh từ)
và “oiktimôn” (tính từ):
diễn tả sự xúc động trước nỗi khổ của tha nhân, trắc ẩn. Từ thứ ba này ít thông
dụng.
3. Misericordia là gì?
Trong
tiếng Latinh, dựa theo sự phân tích tầm nguyên của Thánh Augustinô (misericordia, cor miserum),
Thánh Tôma Aquinô định nghĩa như là sự thông cảm (compassio) đứng trước nỗi khổ của tha nhân (compassio super miseria aliena).[7]
Lòng thương xót chỉ là một hình thái của tình yêu, chứ không đồng nghĩa với
tình yêu: tình yêu dành cho người đau khổ, thiếu thốn. “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8),
nhưng tình yêu giữa Ba Ngôi với nhau không phải là thương xót; lòng thương xót
được bày tỏ đối với nhân loại, và chính xác hơn nữa, lòng thương xót được gắn
liền với sự tha thứ tội lỗi. Nếu loài người không phạm tội thì có lẽ Chúa sẽ
không có cơ hội thể hiện lòng thương xót. Hiểu như thế có đúng không? Dù đúng
hay không, một cách thức để hiểu rõ bản chất của lòng thương xót, là đối chiếu
với những hình thức tương tự hoặc tương phản với nó, cũng như những hiệu quả
của nó: thương xót với tình thương, thương xót với công bình. Đó là con đường
mà chúng ta sẽ khảo sát nơi các bản văn của Kinh Thánh (phần thứ nhất) và Truyền
thống Thần học (phần thứ
hai).
I. KINH THÁNH
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II (Thông
điệp “Dives in misericordia”) cũng như Đức Thánh Cha Phanxicô (Sắc chiếu “Misericordiae vultus”)
đã cung cấp cho ta một chìa khóa để đọc các bản văn Kinh Thánh: trước khi áp
dụng vào tương quan giữa con người với nhau, tiên vàn “misericordia” là một đặc
tính của Thiên Chúa,[8]
biểu lộ bản tính của Thiên Chúa,[9]
là một ưu phẩm tuyệt vời nhất của Ngài.[10]
Nói khác đi, lòng thương xót không phải là một ý niệm trừu tượng, nhưng gắn
liền với một chủ thể: Thiên Chúa giàu lòng thương xót; trong Tân ước, lòng
thương xót mang một khuôn mặt cụ thể nơi Đức Giêsu.
Lòng
thương xót của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ và lịch sử cứu độ. Đôi khi người
ta đối chọi giữa “Thiên Chúa
công bình” của Cựu ước với “Thiên
Chúa thương xót” của Tân ước, nhưng điều đó không đúng. Cựu ước đã
tuyên xưng “Lòng thương xót
Chúa bao trùm mặt đất” (misericordia Domini plena est terra: Tv 33,5; 119, 64).
“Mọi đường lối Chúa đều là
thương xót và chân lý” (Tv 25,10). Tất cả công trình cứu độ bày tỏ
lòng thương xót của Chúa: “Chúa
nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv
145,9).
Dù
thế, có thể nói đến một sự tiệm tiến trong việc biểu lộ lòng thương xót, trải
qua nhiều chặng trong Cựu ước và đạt tới tột đỉnh trong Tân ước.
A. Cựu ước
Để
mở đầu, một nhận xét về từ ngữ. Trong Cựu ước, từ “hesed” được dùng 245 lần, và “rahamim” là 38 lần. Đôi
khi hai từ ấy đi đôi với nhau (x.
Tv 103,4: in misericordia et miserationibus). Hơn thế nữa, nhiều
lần “hesed” được
dùng sánh đôi với “emeth”
(hésed we émeth: misericordia et veritas / fidelitas): trung thành,
chân lý. Những cặp sánh đôi khác là: “mispat”(iudicium,
công lý);[11]“sédaqáh”(iustitia, công chính);[12]“yésu'áh”(salutare, cứu độ);[13]“shalom”(pax, hòa bình);[14]“ahábáh”(caritas, tình yêu);[15]“emúnáh”(veritas, trung tín);[16]“tob”(benignitas, lòng nhân hậu, lòng
tốt).[17]
Một
cách tổng quát, Cựu ước đã mở rộng tầm nhình về “misericordia”: từ tình yêu dành cho dân tộc
Israel đến tình yêu dành cho toàn thể nhân loại và tất cả muôn loài thụ tạo. Chúng
ta thử ghi nhận những bước tiến từ những trang đầu của sách Sáng thế, rồi đến
lịch sử của Israel (từ lúc
được cứu thoát khỏi Ai cập và xuất hành cho đến các Ngôn sứ và sách Khôn ngoan).
1. Khởi nguyên
Thiên
Chúa đã tạo dựng vạn vật do tình yêu; nhưng lòng lân tuất được biểu lộ cách
riêng khi con người phạm tội. Đối với nguyên tổ, sau khi đã phạm tội, Thiên
Chúa đã tuyên phạt, nhưng đồng thời Ngài cũng hứa ban ơn cứu độ (St 3,14: protoevangelium).
Một cách tương tự như vậy, Chúa phạt Cain vì đã giết em mình, nhưng Ngài hứa sẽ
che chở ông trên đường lưu lạc (St
4,15). Vào thời Noe, Chúa trừng phạt nhân loại tội lỗi, nhưng Chúa
không tận diệt nhân loại: Ngài đã cứu ông Noe để bảo tồn nhân loại; hơn thế
nữa, Ngài ân hận và thề sẽ không bao giờ gây cảnh tàn phá như thế nữa (St 9, 8-17). Ngài không
phải là vị Thần tàn sát. Trong cuộc đối thoại với ông Abraham, Thiên Chúa cho
biết là Ngài sẽ không hủy diệt thành phố Sodoma nếu tìm được mười người công
chính (St 18).
2. Cuộc Xuất hành
Biến
cố xuất hành là một bằng chứng của tình yêu. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu than
của dân Israel, và nhớ lại lời hứa với các tổ phụ, cho nên ngài đã ra thay can
thiệp để giải thoát khỏi cảnh áp bức nô lệ: “Ta
là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac,
Thiên Chúa của Giacob... Ta thấy cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe
tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, ta biết các nỗi đau khổ của
chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy
lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn” (Xh 3,6-8). Ta có thể coi đây
như là bước thứ nhất của kinh nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài đau xót trước nỗi khổ của dân mà
Ngài đã hứa sẽ bảo vệ.
Lòng
thương xót của Thiên Chúa còn được biểu lộ rõ rệt hơn nữa trên cuộc lữ hành
tiến về Đất hứa. Dân Israel chóng quên những ân huệ đã nhận được, quên đi giao
ước, và muốn quay về thờ lạy các thần linh khác. Thiên Chúa “nổi giận”; điều này không
có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng chính lúc sắp thi thố sự công bình thì cũng là lúc
ngài nhớ lại tình thương và đã tha thứ. Qua đó ông Mosê đã khám phá ra bản tính
đích thực của Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta thường dừng lại ở đoạn văn Xuất
hành 3,13-15, khi Chúa nói với Mosê: “Ta
là Đấng hiện hữu”, nhưng chúng ta bỏ qua đoạn văn Xuất hành 34,6-7:
“Đức Chúa, Đức Chúa (Giavê, Giavê), Thiên Chúa nhân hậu và từ bi (misericors et clemens),
hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín (patiens
et multae miserationis et verax), giữ lòng nhân nghĩa (custodit misericordiam)
với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua
điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông”. Đây là
một đoạn văn căn bản của sự mặc khải về các ưu phẩm của Thiên Chúa. Người ta
đếm được 13 đặc tính (trong
đó, 11 nói đến lòng thương xót – nhân hậu, và chỉ có hai đặc tính đả động đến
sự công bình).
Đến
đây ta có thể gọi là cấp thứ hai của cảm nghiệm về lòng thương xót: lòng thương
xót đối chiếu với đức công bình: lòng
thương xót vượt xa đức công bình, bởi vì ai có tội thì sẽ bị phạt
cho đến ba bốn đời; nhưng lòng nhân nghĩa thì lâu bền hơn, vì kéo dài đến muôn
ngàn thế hệ. Lòng thương xót được biểu lộ qua sự tha thứ lỗi lẫm (x. Xh 34, 9; Ds 14,19-21).
Dù sao đi nữa, chúng ta cần ghi nhận điều mặc khải này, như Sách Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo đã làm. Trong Cựu ước, Thiên Chúa không chỉ mặc khải như là “Đấng Tự Hữu” mà còn như
là “nhân hậu và từ bi”
(misericors et clemens).[18]
Chặng
thứ ba của cảm nghiệm này có thể đọc thấy nơi những lời trối của ông Mosê vào
lúc cuối đời, ở sách Đệ-nhị-luật 4,30-31: “Khi
anh gặp cảnh ngặt nghèo, khi tất cả những điều ấy xảy ra cho anh sau này, anh
sẽ trở lại với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh và sẽ nghe tiếng Người. Thiên Chúa
của anh là Thiên Chúa từ bi: Người sẽ không bỏ mặc anh, sẽ không tiêu diệt anh,
sẽ không quên giao ước Người đã thề với cha ông của anh”. Sự tiến
triển của quan niệm về lòng thương xót không chỉ nằm ở chỗ nó lớn hơn đức công
bình, nhưng là nó được biểu
lộ qua đức công bình. Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của dân để bày
tỏ lòng thương xót của mình. Hình phạt nhằm cho họ quay trở về với Ngài để lãnh
nhận các phúc lành.[19]
3. Các Thánh vịnh
Các
Thánh vịnh quảng diễn lòng thương xót của Thiên Chúa cách bao quát hơn, không
chỉ giới hạn vào kinh nghiệm của lịch sử Israel. Lòng thương xót là bản tính
của Thiên Chúa. Chúng ta tạm phân chia các Thánh vịnh vào ba loại: thứ nhất,
những Thánh vịnh ca ngợi lòng thương xót; thứ hai, những Thánh vịnh mặc khải
bản tính Thiên Chúa là Đấng thương xót; thứ ba, những Thánh vịnh dạy chúng ta
những bài học thực hành nhờ cảm nghiệm về lòng thương xót.
a/. Thánh vịnh ca ngợi lòng thương xót của Thiên Chúa
Những
Thánh vịnh này khá nhiều, duy có điều là khi chuyển sang tiếng Việt, danh từ “misericordia” được dịch
bằng nhiều từ khác nhau, như đã nói ở đầu. Lòng thương xót là một ưu phẩm của
Thiên Chúa. Lòng thương xót bao trùm khắp mặt đất, như Thánh vịnh 57,11 ca
ngợi: “Tình thương của Ngài
cao ngất trời xanh, và lòng thành tín vượt ngàn mây thẳm” (quoniam magnificata
est usque ad caelos misericordia tua, et usque ad nubes veritas tua).
Chúng ta trưng dẫn vài thí dụ. Thánh vịnh 136 là một bài ca ngợi các kỳ công
của Thiên Chúa biểu lộ qua việc tạo dựng và cứu chuộc, với điệp khúc: “muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình
thương” (quoniam in aetenum misericordia eius, hesed). Điệp khúc ấy
được lặp lại ở nhiều Thánh vịnh: “Hãy
ca tụng Chúa vì Người nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”
(Confitemini Domino quoniam bonus, quoniam in aeternum misericordia eius),
chẳng hạn như ở đầu các Thánh vịnh 106 và 107 (ôn lại lịch sử Israel), Thánh vịnh 118 (tạ ơn sau khi giải thoát khỏi cơn
hoạn nạn), hoặc cuối Thánh vịnh 100: “Bởi vì Chúa nhân hậu (suavis), muôn ngàn đời Chúa vẫn
trọn tình thương (“misericordia”), qua bao thế hệ vẫn một niềm thành tín
(veritas)”.
b/. Thánh vịnh mặc khải bản tính Thiên Chúa là Đấng
thương xót
Nhóm
thứ hai gồm những Thánh vịnh ca tụng Thiên Chúa về lòng thương xót của Ngài
được diễn tả qua việc tha thứ tội lỗi. Ta có thể lấy hai Thánh vịnh điển hình:
103 và 145. “Chúa là Đấng từ
bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (miserator et misericors
Dominus, longanimis et multae misericordiae). “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ
lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145,8-9). “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ
khá quên mọi ân huệ của Người... Chúa là Đấng từ bi nhân hậu (miserator et
misericors Dominus), Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn
luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta
xứng với lỗi lầm... Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh
lòng thương kẻ kính tôn. Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người
nhớ, ta chỉ là cát bụi” (Tv 103,8-10.13).
c/. Thánh vịnh dạy bài học thực hành
Khi
biết rằng Chúa là đấng từ bi nhân hậu, ta hãy tín thác vào lòng thương xót, đặc
biệt là tin tưởng rằng các tội lỗi của chúng ta sẽ được Ngài tha thứ. Tâm tình
này được bộc lộ đặc biệt nơi các Thánh vịnh thống hối, Thánh vịnh 51: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu
xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm” (Miserere mei Deus,
secundun magnam misericordiam tuam); hoặc Thánh vịnh 130: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con
biết kính sợ Ngài... Trông cậy Chúa đi, Israel hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một
niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa” (quia apud Dominum misericordia et
copiosa apud eum redemptio).[20]
4. Các Ngôn sứ
Nơi
các Ngôn sứ, những tư tưởng trên đây được lặp lại, chẳng hạn như những lời chúc
tụng lòng thương xót của Thiên Chúa qua các công trình cứu độ (xc. Is 63,7-9). Các Ngôn
sứ không ngần ngại ví tình thương của Ngài như người cha, người chồng, người
mẹ. Người mẹ không thể nào quên đứa con mình ra cưu mang (Is 49,15). Người chồng
chung thủy không bỏ rơi người vợ thất tín (Hs
2,16-25; Gr 2,2; 3,1; 31,20; Ed chương 16 và 23); Hosea cũng có lúc
mô tả Thiên Chúa như người cha âu yếm đã từng nuôi dưỡng đức con thơ (Hs 11,1-8). Tất cả đều
nhằm kêu gọi Israel trở về với giao ước, tin tưởng vào lòng thương xót của
Thiên Chúa, Ngài sẽ bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm (Is 38,10; 43,25; Ge 2,12-13).
Một
sự tiến triển về chiều rộng của lòng thương xót có thể nhận thấy nơi câu chuyện
ông Giona, khi ông nhìn nhận rằng lòng thương xót của Chúa không chỉ giới hạn
vào dân tộc Israel mà còn mở rộng đến mọi dân tộc.
Đó
cũng là kết luận của Sách
Khôn ngoan. Thiên Chúa muốn tỏ lòng thương xót đối với mọi loài,
bởi vì muôn loài đều do Chúa dựng nên: “Trước
Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi
trên mặt đất, Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự.
Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối
cải. Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào
Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên... Lạy
Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều
là của Chúa” (Kn 11,22-26).
Tóm lại
Chúng
ta có thể tóm lại “Thần học
về Thiên Chúa thương xót” của Cựu ước như sau:
-
Thiên Chúa là “Đấng từ bi và
hay thương xót” (hanán wé-rahztm:misericors et miserator, 11 lần); “từ bi và
chính trực” (misericors et miserator et iustus 2 lần: Tv 112,4; 116,5); “nhân
hậu và từ bi, chậm giận, giàu lòng thương xót” (miserator et misericors,
longanimis et multae misericordiae: x. Ds 14,18; Gl 2,13; Gn 4,2; Tv 86,15;
103,8; 145,8; Nkm 9,17; Cn 14,29; 15,18; 16,32).
-
“Lòng thương xót của Ngài hằng
cửu” (aeterna est misericordia: Tv 118; 136; 2 Sbn 5,13; 7,6; 20,21; Et 3,11).
Câu này có thể giải thích hai cách:
+
Lòng thương xót của Thiên Chúa thì hằng cửu, không bao giờ chấm dứt (x. Tv 23,6; 89,3; 103,17; 138,8);
+
Đấng Hằng Cửu (Thiên Chúa)
là Đấng thương xót: bản tính của Ngài là thương xót. Cùng với tính hằng cửu, ta
cũng nói đến tính “phổ quát”,
bao trùm hết mọi người (Xh
34,7; Tv 103,8-14; Hs 11,9; Gn 4,2-11; Kn 11,24; Hc 18,13); “bao la”, không giới hạn
không gian và thời gian (Tv
5,8; 51,3; 69,14; 86,5.15; 106,7.45; Hc 2,23; 17,28; 35,26;v.v...).
-
Lòng thương xót của Chúa bao trùm tất cả những nhu cầu của con người, xét như
tập đoàn của như cá nhân. Thiên Chúa cảm thông với những nổi khổ của nhân loại,
và đến cứu giúp họ. Ngài cam kết sẽ cứu giúp Israel, vì thế Ngài cảm thông
những đau khổ của họ, như đã thấy trên đây. Nhưng các cá nhân cũng tin tưởng
vào lòng nhân từ của Chúa, nên họ chạy đến với Ngài trong mỗi cơn nguy khốn,
chẳng hạn như: bệnh tật (Tv
6,3; 41,11), nghèo túng (Tv
25,16), xao xuyến (Tv
10,18; 41,11; 57,2; 118,4 tt.), bị bách hại (Tv 56,2). Đặc biệt, con
người van nài lòng thương xót của Chúa khi đã phạm tội với Ngài như chúng ta đã
nói trên đây.
B. Tân ước
Nhận
xét về từ ngữ: “éleos” (và
các từ ngữ cùng gốc) được dùng 78 lần: nhiều nhất là Phaolô (26 lần), Luca và Công Vụ
Tông Đồ (20 lần),
Matthew (15 lần),
nhưng vắng bóng trong Gioan, Philipphê, Thexalonica; “splanchna” (dưới hình thức động từ
trong Tin Mừng Nhất lãm ám chỉ lòng trắc ẩn của Đức Giêsu; danh từ được dùng
cho con người); “oiktirmos”
danh từ được dùng 4 lần nơi Phaolô (2Cr
1,3; Rm 12,1; Pl 2,1, Cl 3,12).
Những
đề tài về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Cựu ước được lặp lại trong Tân
ước. Điều mới mẻ của Tân ước ở chỗ, lòng thương xót ấy được biểu lộ nơi bản
thân của Đức Giêsu, Lời Nhập thể (hoặc
“Lòng thương xót nhập thể”). Nói đúng hơn, Tân ước nói đến hai chủ
thể của lòng thương xót: lòng thương xót của Chúa Cha, và lòng thương xót của
Đức Giêsu.
Chúng
ta tạm phân chia các bản văn thành hai khối chính để nghiên cứu: 1/ Các sách
Tin Mừng mang tính mô tả: Đức Giêsu thể hiện tình yêu của Thiên Chúa bằng lời
nói và việc làm; 2/ Các bản văn của Thánh Phaolô mang tính suy tư về lòng
thương xót của Thiên Chúa Cha và của Đức Giêsu.
1. Các sách Tin Mừng
Các
sách Tin Mừng cho ta thấy Đức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót của Thiên
Chúa, nơi chính bản thân cũng như bằng lời nói việc làm.
a/.
Một từ ngữ ra như biểu lộ cá tính của Đức Kitô trong lãnh vực chúng ta đang bàn
là “lòng trắc ẩn”
(compassio: đồng cảm, cảm thông). Người động lòng trắc ẩn khi thấy
đám đông như đàn chiên lạc không kẻ chăn dắt (Mc
6,34). Người động lòng trắc ẩn khi thấy đám đông đi theo người đã
ba ngày mà không có gì ăn (Mt
7,13). Người động lòng trắc ẩn khi thấy đám tang của người con một
của bà góa thành Naiim (Lc
7,13). Người động lòng trắc ẩn khi thấy những người bệnh tật kêu
cứu và xin chữa lành: người phong (Mc
1,40), người mù ở Giêrikhô (Mt
20,34). Người thổn thức và khóc trước cái chết của người bạn Lazarô
(Ga 11,35), cũng
như khi trông thấy trước cảnh tàn phá của Giêrusalem (Lc 19, 41-42).
b/. Thánh
Matthew
đã ghi lại nhiều lời giảng của Đức Giêsu về lòng thương xót. Dĩ nhiên, tiên vàn
Người nói đến lòng thương xót của Cha trên trời, Đấng quan phòng cho vạn vật,
chim trên trời, hoa ngoài đồng,... (Mt
6,25-34). Việc cảm nhận lòng thương xót của Cha dẫn chúng ta đến
chỗ tín thác vào Cha, cũng như tỏ thái độ đại lượng giống như Cha: yêu thương
kẻ thù (Mt 5,45),
tha thứ cho kẻ mắc nợ (dụ
ngôn hai con nợ Mt 18,33: “Ngươi không phải thương xót đồng bạn như chính ta đã
thương xót người sao?”). “Phúc
thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).
Matthêu cũng hai lần (Mt
9,12-13; 12,7) trích dẫn đoạn văn Hosea: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu muốn lễ tế”
(misericordiam volui et non sacrificium: 6,4-6) để giải thích thái
độ của Đức Giêsu đối với kẻ bệnh tật và người tội lỗi. Tất cả lề luật được tóm
lại trong ba danh từ: “công
lý”, “lòng nhân”
và “thành tín” (iudicium,
misericordia, fides: Mt 23,23).
c/.
Tác phẩm của Thánh Luca
được đặt tên là “Tin Mừng
của lòng thương xót”. Đặc trưng của tác phẩm này có thể thấy qua ba
điểm: sứ điệp thương xót được giới thiệu ngay từ những chương đầu; cao điểm là
các dụ ngôn về lòng thương xót ở chương 15:
-
Ngay từ chương đầu, từ “lòng
thương xót” đã xuất hiện nơi các bài ca “Magnificat” và “Benedictus”. Kinh “Magnificat” là bài ca tạ
ơn Thiên Chúa của lòng thương xót. Danh Thiên Chúa là Đấng Thánh và trải qua
bao thế hệ, Ngài đã bày tỏ lòng thương xót cho những kẻ kính sợ Ngài (et sanctum nomen eius, et
misericordia eius in progenies timentibus eum: Lc 1, 49-50), những
kẻ đói nghèo thấp kém. Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ vì nhớ lại lòng thương
xót đã dành cho tổ tiên (Lc
1,54). Tư tưởng này cũng được lặp lại trong thánh ca “Benedictus”, ông Dacaria
chúc tụng Thiên Chúa vì đã đến thăm viếng Dân và nhớ lại lòng thương xót với
các tổ tiên (ad faciendam
misericordiam cum patribus nostris et memorari testamenti sui sancti: Lc 1,72);
đồng thời ông tiên báo sứ mạng của Gioan dọn đường cho Đấng cứu tinh, Đấng sẽ
ban ơn tha thứ do lòng từ bi (per
viscera misericordiae Dei nostri: Lc 1,78). Như thế trong hai bài
thánh ca, từ “lòng thương
xót” được nhắc đến 4 lần (50;
54; 72; 78).
-
Khi xuất hiện tại hội đường Nazareth, Đức Giêsu đã tuyên bố sứ mạng của mình là
mang Tin Mừng cho những người nghèo, sự giải thoát cho những người bị giam cầm (Lc 4,18-19). Điều này
được thể hiện qua những việc chữa lành bệnh nhân (xc. Lc 7,21-23), và đặc biệt là qua việc tha
thứ tội lỗi. Điều này giải thích vì sao Người gần gũi các tội nhân thay vì
trừng phạt họ, khác với cách hình dung của ông Gioan Tiền Hô (Lc 3,7). Qua ba dụ ngôn ở
chương 15, Đức Giêsu cho thấy rằng Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót khi Ngài
đi tìm những người lầm lạc, và Ngài vui mừng khi họ trở về. Nên lưu ý là Thiên
Chúa không những sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi khi họ ăn năn, nhưng Ngài còn
đi tìm người tội lỗi để đưa họ trở về nhà. Đức Giêsu muốn chứng tỏ điều ấy bằng
chính cuộc đời của mình, khi đi tìm những người tội lỗi.
Từ
những dụ ngôn này, ta có thể kết luận rằng, “bản
tính của Thiên Chúa là Đấng thương xót”. Vì thế, các môn đệ được
mời gọi: “hãy thương xót như
Cha thương xót” (Estote misericordes, sicut et Pater vester misericors est: Lc
6,36).[21]
2. Các thư Phaolô
Các
sách Tin Mừng ra như chú trọng đến Đức Giêsu như là kẻ mặc khải lòng thương xót
của Thiên Chúa bằng lời nói và việc làm. Các thư Thánh Phaolô suy tư về lòng
thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ ở nơi Đức Kitô.
Trước
hết, chúng ta đọc thấy tước hiệu của Thiên Chúa ở hai đoạn văn:
-
2Cr 2,1: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người
là cha giàu lòng từ bi lân ái (Pater
misericordiarum: ho pater tôn oiktirmôn), và là Thiên Chúa hằng sẵn
sàng nâng đỡ ủi an ta”;
-
Ep 2,4: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót (giàu
trong sự thương xót: plousios ôn en éléei) và rất mực yêu mến chúng
ta” (Deus, qui dives in
misericordia, propter nimiam caritatem suam qua dilexit nos).
Dĩ
nhiên, đây không phải là mỹ từ. Thánh Tông đồ nhắc đến lòng thương xót của
Thiên Chúa trong bối cảnh của lịch sử cứu độ: khi loài người còn ở trong tình
trạng tội lỗi, thì Thiên Chúa đã ban ơn giao hoà nhờ Đức Giêsu. Nhờ thập giá và
cuộc phục sinh của Đức Giêsu, nhân loại được phục hồi sự sống, hơn thế nữa,
được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Tư tưởng then chốt này nằm trong toàn bộ
giáo lý của Thánh Phaolô, chứ không chỉ nằm lẻ tẻ trong vài đoạn văn. Công trình
cứu chuộc là kết quả của lòng thương xót. Vì thế mà công cuộc cứu độ được đặt
tên là “thương xót”,
bởi vì qua đó Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót (x. Rm 11,31; 15,9). Loài người, đối tượng
của lòng thương xót, được gọi là “bình
thương xót” (vasa misericordiae: Rm 9,23; Cv 9,15; 2 Tm 2,20). Để
nêu bật điều ấy, thánh tông đồ dùng những lối nói hơi “sốc”: “Thiên Chúa đã giam hãm mọi người
trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người” (Rm 11,32; xc. Rm
10,22-23).
Nên
biết là động lực thúc đẩy Thiên Chúa ban ơn cứu độ được diễn tả không chỉ qua
phạm trù “thương xót”
(“misericordia”) mà còn qua các phạm trù khác nữa, chẳng hạn: tình
yêu (agape), ân
huệ (kharis).[22]
Công trình cứu chuộc là kết quả của tình yêu Chúa Cha, và cũng là kết quả của
tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta nữa (Ep
5,3).
Thánh
Phaolô nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại, và không quên
thuật lại cảm nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho bản thân:
“Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được
Người thương xót” (misericordiam
consecutus sum)... Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón
nhận: “Đức Kitô Giêsu đã đến
thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà người đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được
thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người
nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để
được sống muôn đời” (1Tm 1,13-16).
Khỏi
nói ai cũng biết, một khi chúng ta đã được Chúa yêu thương tha thứ, thì đến
lượt chúng ta cũng phải biết yêu thương tha thứ cho nhau (x. Ep 4,31-32), tỏ lòng
thương xót cho nhau (Cl
3,12: “hãy mặc lấy lòng thương cảm”: induite viscera misericordiae).[23]
Tuy
ngày nay thư gửi Hipri không còn được coi như tác phẩm của Thánh Phaolô, nhưng
nó cũng được xếp gần các thư của Thánh Tông đồ. Một tư tưởng then chốt chính
của bức thư này là: Đức Kitô là vị Thượng tế đã dâng hiến mình làm của lễ xá
tội cho nhân loại, và Đức Kitô được giới thiệu như là vị “Thượng tế đầy cảm thông” (misericors
pontifex), bởi vì Người đã từng trải qua những đau khổ của kiếp
nhân sinh (x. Dt 2, 17).
Thiết tưởng nên đọc đoạn văn này trong bối cảnh lịch sử của nó. Khi chú giải
câu 11 của Thánh vịnh 85: “lòng
thương xót và chân lý gặp nhau, công lý và hòa bình hôn nhau”;
truyền thống của các Rabbi đối chọi giữa một bên là chân lý và công lý (tượng trưng nơi ông Mosê),
một bên là lòng thương xót và hòa bình (tượng
trưng nơi ông Aaron; một người thông cảm với sự yếu đuối của nhân dân và tìm
kiếm hoà bình đến nỗi trở thành đồng loã với tội lỗi của họ, theo Xh 32, 1-5).
Sự hòa hợp giữa bốn điều kể trên chỉ xảy đến vào thời Cánh Chung. Tác giả thư
Hipri trình bày Đức Giêsu như trung gian của giao ước mới, nghĩa là của luật
mới được ghi khắc trong tim (Dt
8,6): Đức Giêsu là ông Môsê mới; đồng thời, Người cũng là tư tế
biết cảm thông những yếu đuối của nhân loại (Dt
4,14-15), nghĩa là ông Aaron mới. Nơi Đức Kitô, đã thực hiện lời
sấm “tín nghĩa ân tình nay
hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên” (Tv 85).
Chúng
ta không nói nhiều về Thánh Gioan. Thánh nhân không sử dụng từ ngữ “misericordia”, nhưng
những ý tưởng mà chúng ta đã phân tích trên đây đều được gói ghém trong quan
niệm “agape”,
được xem như “bản tính của
Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến
nỗi đã ban Con Một để cho họ được sống muôn đời (x. Ga 3,16). Thiên Chúa đến tìm con người,
chứ không phải con người đi tìm Thiên Chúa (x.
1Ga 4,10). Nơi Tin Mừng thứ bốn, Đức Giêsu xuất hiện không chỉ như
là “dấu chỉ” của
tình yêu Thiên Chúa, nhưng chính Ngài là Thiên Chúa. Trong Luca, Đức Giêsu dùng
dụ ngôn vị mục tử nhân lành để nói về Chúa Cha trên trời (Lc 15,7); trong Tin Mừng
thứ bốn, Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi
là người mục tử nhân lành” (Ga 10,11). Cách riêng, nhờ Đức Kitô,
nhân loại nhận được đầy tràn “ân
sủng và chân lý” (Ga 1,17), đặc trưng của Thiên Chúa lân tuất.
II. SUY TƯ THẦN HỌC
Chúng
ta không có nhiều thời giờ để rảo qua Thần học về “misericordia” trong lịch sử Thần học. Trong
phần suy tư dưới đây, chúng ta dựa theo Thánh Tôma Aquinô, cùng với những gợi ý
từ hai văn kiện của Huấn Quyền cận đại: “Thông
điệp Dives in misericordia” của Thánh Gioan Phaolô II (30/11/1980) và “Sắc chiếu Misericordiae vultus”
của Đức Thánh Cha Phanxicô (11/4/2015).[24]
Trước
khi đi vào vấn đề, xin được lưu ý về từ ngữ. Ở đầu bài, chúng ta thấy rằng, “misericordia” được dịch
sang tiếng Việt bằng nhiều từ ngữ: thương xót, từ bi, nhân hậu,.v.v... và tất
cả xem ra đồng nghĩa. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của Thánh Tôma Aquinô, mỗi từ
ấy có một đặc tính riêng: “misericordia”
là một nhân đức thành phần của “caritas”
(đức mến), khiến cho ta cảm thông với nỗi khổ của tha nhân. Ngoài
ra, trong hệ trật các nhân đức, chúng ta thấy có nhiều từ ngữ lân cận, được
Thánh Tôma Aquinô trình bày ở những phần khác nhau của bộ Tổng Luận Thần Học,
chẳng hạn như:
-
Liên quan đến nhân đức công bình: “Vindicatio”
(nghiêm trị, nhằm tái lập trật tự xã hội qua việc trừng phạt đích đáng),[25]“Liberalitas” (hào phóng
hoặc quảng đại trong việc ban phát);[26] “aequitas” (công minh,
tìm cách thực hiện công bình vượt trên pháp luật).[27]
-
Liên quan đến nhân đức can đảm: “magnanimitas”
(độ lượng, nhắm đến việc đại sự),[28]“magnificentia” (hào hiệp:
điều hành lòng ham mê tiền bạc).[29]
-
Liên quan đến nhân đức tiết độ: “clementia”
(nhân từ, giảm bớt hình phạt cho kẻ phạm pháp).[30]
Ở
đây, chúng ta chỉ giới hạn vào những đoạn văn mà Thánh Tôma Aquinô bàn về “misericordia”, để phân
tích những suy tư của ngài, cùng với những đóng góp của Huấn quyền và tư tưởng
Thần học cận đại, mở đầu với những suy tư liên quan đến Thiên Chúa, kế đến liên
quan đến phía chúng ta.
A. Lòng thương xót nơi Thiên Chúa
Theo
Thánh Tôma Aquinô, lòng thương xót là một “ưu
phẩm của Thiên Chúa”. Chúng ta đừng quên rằng, theo thánh nhân, bản
tính Thiên Chúa thì đơn nhất, không có sự phân biệt giữa bản tính và các ưu
phẩm.[31]
Các ưu phẩm là những đặc tính mà chúng ta cảm nghiệm được về Thiên Chúa, dựa
trên những hoạt động của Ngài trong vũ trụ.
Còn
việc phát biểu bản tính và các ưu phẩm của Thiên Chúa thay đổi trải qua thời
đại, chúng ta đã quá quen với việc trình bày Thiên Chúa như là Đấng Tự Hữu, dựa
theo lời mặc khải cho ông Mosê: “Ego
sum qui sum” (Xh 3,14-15). Ngày nay, các nhà chú giải Kinh Thánh
không nghĩ rằng, đó không phải là ý nghĩa nguyên thủy của lời mặc khải: dân du
mục chẳng có ý niệm gì về hữu và vô hữu! Dù sao, một đoạn văn quan trọng không
kém về sự mặc khải bản tính Thiên Chúa là lời tuyên xưng của ông Mosê ở Sách Xuất hành 34,6: “Đức Chúa, Đức Chúa,
Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín”.
Như đã thấy trong phần thứ nhất, lời tuyên xưng này được lặp lại nhiều lần
trong Cựu ước, cách riêng là trong các Thánh vịnh. Danh xưng của Thiên Chúa là “Đấng Thương xót” (hoặc Đức Từ bi:
Deus meus, misericordia mea: bản dịch của GKPV: Lạy Thiên Chúa, Đấng đầy lòng
yêu mến). “Misericordia”
là danh xưng của Đấng Vĩnh Cửu.
1. Lòng thương xót biểu lộ sức mạnh chứ không nhu nhược
Trong
Sắc chiếu Misericordiae
vultus,[32]
Đức Thánh Cha Phanxicô trưng dẫn tư tưởng vừa nói của Thánh Tôma Aquinô.[33]
Đúng ra đây không phải là điều độc đáo của thánh nhân, bởi vì đã được tuyên
xưng trong phụng vụ từ thế kỷ VIII, được trích lại trong Chúa nhật XXVI Mùa
Thường Niên.
Để
nắm bắt tầm quan trọng của tư tưởng này, cần đối chiếu với tư tưởng triết học
Hy lạp. Phái khắc kỷ coi lòng trắc ẩn như là một nhược điểm. Lòng thương xót[34]đồng
hóa với sự buồn phiền vì ghen tương, hay ít là sự thiếu cương quyết (chẳng hạn nơi một thẩm phán).
Tuy nhiên, nơi Thiên Chúa thì khác: lòng thương xót không phải là dấu hiệu của
nhu nhược, mà là của sức mạnh.
Thánh
Tôma Aquinô phân biệt hai khía cạnh trong sự thương xót (hoặc thương hại, thông cảm):
a/.
Khía cạnh cảm xúc (affective),
xót xa trước cảnh khổ của tha nhân, mà mình coi như của chính mình;
b/.
Khía cạnh hữu hiệu (effective),
là hành động nhằm giúp đỡ tha nhân thoát khỏi cảnh khổ đó. Để lòng thương cảm
trở thành nhân đức, nó phải bao gồm cả hai khía cạnh; ngoài ra nó còn phải dựa
trên một điều tốt khách quan,[35]
và cần được diễn ra bằng hành động tùy theo khả năng (chứ đừng thương nhau bằng đầu môi
chót lưỡi).[36]
Chúng
ta áp dụng quan niệm “thương
xót” cho Thiên Chúa một cách loại suy: Ngài không mủi lòng xúc động
(theo cảm xúc: secundum
affectum) giống như chúng ta, nhưng Ngài có quyền năng để giúp đỡ
những cảnh cùng khốn của nhân loại (secundum
effectum). Mọi việc Ngài làm đều bày tỏ lòng quảng đại, thi ân
giáng phúc: Ngài trao tặng không vì công lênh của chúng ta.[37]
Đặc
biệt, Ngài bày tỏ quyền năng của lòng thương xót khi tha thứ tội lỗi cho chúng
ta. Ở đây, quyền năng được bày tỏ không phải bởi vì Ngài nén được cơn giận,
không trừng phạt chúng ta xứng với lỗi lầm, nhưng vì Ngài đổi mới tâm hồn chúng
ta: từ kẻ thù địch trở thành con cái, và đáng hưởng gia nghiệp Thiên Quốc. Đối
với Thánh Tôma Aquinô, việc thương xót và tha thứ cho tội nhân thì còn lớn lao
hơn là tạo dựng đất trời,[38]
bởi vì trời đất sẽ qua đi, còn người công chính sẽ được ở bên Chúa mãi mãi.
2. Thương xót với công bình và chân lý
Đề
tài “công bình và thương
xót” được đề cập trong Thông
điệp Dives in Misericordia[39]
cũng như Sắc chiếu Misericordia
Vultus.[40]
Thiết
tưởng có nhiều cách đặt vấn đề khác nhau, từ đó cũng có nhiều giải pháp khác
nhau. Trước tiên, chúng ta hãy xem cách đặt vấn đề của Thánh Tôma Aquinô, rồi
chúng ta hãy đối chiếu với cách đặt vấn đề trong Kinh Thánh.
a/.
Cách đặt vấn đề dựa theo Thánh Tôma Aquinô: “Công
bình và thương xót” (iustitia et misericordia) nơi Thiên Chúa.
Trong
bộ Tổng Luận Thần Học, phần thứ Nhất, Thánh Tôma Aquinô đã dành câu hỏi 21 để
bàn về công bình và thương xót nơi Thiên Chúa.
-
Thiên Chúa là Đấng Công bình.[41]
Có hai thứ công bình: công bình giao hoán và công bình phân phối. Nơi Thiên
Chúa chỉ có công bình phân phối. Nơi Thiên Chúa có sự công bình vì Ngài đã phân
phối mọi sự theo trật tự hài hòa và khôn ngoan.
-
Nơi Thiên Chúa, công bình và thương xót trùng hợp với nhau, bởi vì bản tính của
Thiên Chúa là đơn thuần.[42]
Thiên Chúa luôn luôn công bình và lân tuất, cùng một lúc. Công bình giả thiết
lân tuất, và dựa trên lân tuất. Khi Thiên Chúa hành sử theo lòng lân tuất thì
Ngài không đi ngược lại công bình nhưng làm một điều vượt qua giới hạn của công
bình; cũng tương tự như ta khi xóa một món nợ cho ai thì ta không lỗi công bình
nhưng ta tỏ ra đại lượng với họ, đó là một quà tặng.[43]
Kể cả khi trừng phạt kẻ bất lương, Thiên Chúa vẫn tỏ lòng lân tuất bởi vì Ngài
không phạt nó hoàn toàn xứng với tội trạng.[44]
b/.
Thử đặt lại vấn đề dựa theo quan điểm Kinh Thánh
Ngay
từ nhập đề, chúng tôi đã lưu ý đến vấn đề từ ngữ trong tiếng Việt. “Misericordia” có thể dịch
bằng nhiều từ khác nhau: thương xót, từ bi, tình thương, trắc ẩn, nhân từ,
khoan hồng,.v.v... Những từ này không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Một cách
tương tự như vậy “iustitia”
(hoặc iustus) có thể dịch là: công bình, công minh, công chính,
công thẳng, chính trực, thanh liêm, ngay chính,.v.v... Nói rằng Thiên Chúa công
minh thì nghe được, nhưng nếu Thiên Chúa công thẳng thì chúng ta khiếp.
Đó
mới là chuyện dịch thuật. Vấn đề ý tưởng còn quan trọng hơn. Tư tưởng của người
Do thái không giống như tư tưởng của người Hy lạp (hoặc Latinh).
-
“Misericordia”.
Đối với Thánh Tôma Aquinô, “misericordia”
chỉ là một dạng của “caritas”
chứ không đồng nghĩa. Nhưng trong tiếng Hipri thì “hesed” bao gồm cả hai ý nghĩa ấy. Hơn thế
nữa, chúng ta thường liên tưởng đến “misericordia”
khi nghĩ đến tội lỗi của chúng ta, để xin Chúa dủ lòng tha thứ. Nhưng “misericordia” của Kinh
Thánh thì rộng hơn nhiều: nó bao trùm tất cả mọi công trình của Thiên Chúa, kể
cả việc tạo dựng. Chúng ta có một chứng tích nơi Thánh vịnh 136: “Hãy chúc tụng Thiên Chúa vì Chúa nhân
từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Thiên Chúa tỏ bày “misericordia” khi tạo
dựng đất trời, trăng sao,… mặc dù chẳng đả động gì đến tội lỗi con người.
-
“Iustitia” của
Thiên Chúa tiên vàn nói đến sự cứu độ trước khi đả động đến sự trừng phạt.
Trong Cựu ước, con người kêu van “iustitia”
của Thiên Chúa (nghĩa là
công lý), để giải thoát họ khỏi cảnh bất công, áp bức. Trong Tân
ước, Thánh Phaolô nói đến ơn “công
chính hóa” (iustificatio), tức là con người được trở nên công chính
trước mặt Chúa. Vì tội lỗi, con người trở thành “bất chính” (bất lương) trước mặt Chúa. Nhưng
Thiên Chúa là Đấng công chính đã ban ơn công chính cho loài người nhờ Đức Kitô.
Như vậy, ta đừng nên quan niệm sự công chính của Thiên Chúa như là công lý pháp
đình (xét xử công minh, công
bình khi luận tội); không! Thiên Chúa bày tỏ sự công bình qua việc
ban ơn cứu độ: đó là hồng ân công chính cứu độ. Sự công chính này không do công
trạng con người đạt được (Rm
3, 26-28; Gl 2, 16), trái với quan niệm của người Pharisêu (x. Mt 5,20; Lc 18,14).
-
Đặc biệt, trong Kinh Thánh, cặp đôi “công
bình và thương xót” (emet – hesed)
xuất hiện đến 30 lần trong Cựu ước. Hai đặc tính này được diễn tả dưới
nhiều hình thức tương đương trong bản dịch Việt ngữ: “tín thành – ân nghĩa”; “tín nghĩa - ân tình”; “nhân hậu - thành tín”; “nhân từ - chính trực”
được sử dụng khá nhiều trong các Thánh vịnh: “Muôn
nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người. Vì tình Chúa
thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm”.[45]
Trong Tân ước, chúng ta sẽ gặp lại cặp đôi “ân
sủng và chân lý” nơi Ga 1,14.17.
Cả
hai đều nói lên sự gần gũi âu yếm của Thiên Chúa:
+
“emet” không chỉ
có nghĩa là công bình chính trực, mà còn là trung tín với lời hứa bất chấp sự
bội tín của con người;[46]
+
Còn “hesed” là
lòng thương xót, khoan nhân, và cũng dựa trên lời hứa hoặc giao ước.
Như
vậy, cả hai đặc tính đều dựa trên lòng đại lượng của Thiên Chúa, Ngài tự ý ràng
buộc mình với con người. Các Rabbi kể chuyện như thế này. Thiên Chúa được ví
như một vua có hai cái ly. Ông nói: “Nếu
ta đổ nước nóng thì ly sẽ vỡ; nếu ta đổ nước lạnh thì ly sẽ nứt”.
Làm sao bây giờ? Nhà vua hòa nước nóng với nước lạnh, rồi đổ vào ly và không có
gì xảy ra. Thiên Chúa cũng nói như vậy: “Nếu
ta dựng thế giới bằng tiêu chuẩn tình thương thì tội lỗi tràn lan; nếu ta dựng
thế giới bằng tiêu chuẩn công lý thì thiên hạ không sống sót; vì ta sẽ pha trộn
tình thương với công lý để dựng thế giới, hy vọng thế giới sẽ tồn tại”.
B. Thực hành thương xót
Sau
khi đã hiểu biết lòng thương xót của Thiên Chúa, đến lượt chúng ta được mời gọi
thực hành lòng thương xót đối với tha nhân. Tôi chỉ giới hạn vào hai điểm: 1/.
Công bình và thương xót trong Giáo Hội; 2/. Thực hành những công việc thương
xót.
1. Công bình và thương xót
Những
cuộc tranh luận trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về hôn nhân cho thấy rằng thời
nào Giáo Hội cũng gặp khó khăn trong việc dung hòa giữa công bình và thương
xót. Thiết tưởng một chìa khóa để giải quyết vấn đề là nhìn lại tương quan ấy
dưới lăng kính của chân lý và thương yêu (veritas
/ caritas), đã đượcĐức Thánh Cha Benedict XVI nêu lên trong Thông điệp Caritas in Veritate
(29/6/2009): chúng ta hãy nhìn vấn đề từ hai góc độ: “Veritas in Caritate” và “Caritas in Veritate”.
a/. Veritas in Caritate
Cụm
từ này, trích từ thư gửi Ephêsô (4,15): “Veritatem
facientes in caritate”, đã được trưng dẫn hơn một lần để Giáo Hội
tự vấn về vài biện pháp cứng rắn khi bảo vệ chân lý: có thể cưỡng bách người
khác phải chấp nhận chân lý không? Công Đồng Vatican II trả lời rằng: không
được! Chân lý chỉ có thể ràng buộc bằng chính sức mạnh của mình, chứ không bằng
vũ lực bên ngoài.
-
Phải thú nhận rằng, đôi khi thực tế đặt ra những trường hợp nan giải. Yêu nhau
là nói sự thật cho nhau, cho dù “nói
thật mất lòng”? Hay là vì yêu thương mà ta không được dùng biện
pháp cứng rắn? Giả như một người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thì thử hỏi:
thế nào là yêu thương nó? Yêu thương là đi tìm kiếm nó (kể cả nhờ đến lực lượng công an),
dẫn nó về nhà, và nếu nó còn muốn trốn đi thì hãy xích nó lại? Hay là thương
yêu đứa con có nghĩa tôn trọng tự do của nó, chỉ biết ra cửa sổ ngồi khóc chờ
ngày nó hối hận trở về?
-
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể áp dụng cụm từ “Veritas in Caritate” vào một bối cảnh khác,
đó là: hãy trình bày chân lý trong sự kính trọng tha nhân, trong thái độ hòa
nhã (1Pr 3,15-16).
Chúng ta chia sẻ niềm tin của mình cho tha nhân vì yêu thương họ, chứ không
phải với tư cách trịch thượng của kẻ đã nắm chắc chân lý trong tay, muốn lên
mặt dạy đời!
b/. Caritas in Veritate
Tân
ước chỉ có cụm từ “Veritas
in Caritate” (Ep 4,15) vừa trưng dẫn trên đây, chứ không nói đến “Caritas in Veritate”. Đức
Thánh Cha đảo ngược lại thứ tự để rồi đưa về tư tưởng nguyên thủy.
Ngay
ở phần nhập đề,[47]Thông điệp Caritas in Veritate
đã đối chiếu giữa “caritas”
với “veritas”
như sau: Nơi Thiên Chúa, “caritas”
và “veritas”
đồng nhất với nhau.[48]
Dĩ nhiên ở đây, “caritas”
phải hiểu là “Tình yêu”.
Thiên Chúa là Tình yêu vĩnh cửu và Chân lý tuyệt đối. Nơi Thiên Chúa, tất cả
mọi sự đều là tương quan và ban phát Tình yêu trong Chân lý, trước hết là nơi
Đức Giêsu Kitô, kế đến là nơi mỗi nhân sinh, và sau cùng là nơi toàn thể vũ
trụ.[49]
Vì thế không thể nào tách rời tình yêu với chân lý. Con người mang trong mình
sự khao khát tình yêu và chân lý. Chân lý cần được tìm kiếm và diễn tả trong
bầu khí của tình yêu; đối lại, tình yêu cần được hiểu biết và thực hành dưới
ánh sáng của chân lý. Khi trình bày chân lý là chúng ta phục vụ tình yêu, và
việc thực hành yêu thương tăng cường sức khả tín của chân lý. Nếu không có chân
lý, thì tình yêu chỉ là tình cảm rỗng tuếch và dễ bị lệch lạc do đủ thứ ý kiến
xu thời. Nhờ chân lý, chúng ta có khả năng vượt lên những ý kiến, ấn tượng,
giới hạn văn hóa, để thiết lập những giá trị nền tảng chung.
Trong
chương trình mục vụ, Giáo Hội cần phải rao giảng chân lý, “chân lý của lòng thương xót”.
Khi tiếp xúc với con người cụ thể, cần phải để ý đến mỗi tình trạng: Giáo Hội
lên án tội lỗi, nhưng yêu thương con người lỗi lầm (x. Ga 8,11). Chúng ta được khuyên nhủ đừng
nghiêm khắc khi xét đoán tha nhân, bởi vì chỉ có Thiên Chúa biết được cõi lòng
của mỗi người. Dù sao, vào ngày cánh chung, tất cả chúng ta sẽ bị xét đoán dựa
theo lòng thương xót (hoặc
được phán xét bởi lòng thương xót).
2. Những công việc thương xót
Sau
những suy tư lý thuyết, Thông
điệp Dives in misericordia và Sắc
chiếu Misericordiae vultus mời gọi chúng ta diễn tả cảm nghiệm về
lòng thương xót của Thiên Chúa ra các hành động cụ thể giúp đỡ tha nhân.
Truyền
thống Kitô giáo từ thời Trung cổ quen tóm lại các hành động ấy vào “14 mối thương người”,
được gọi là những công việc thương xót (opera
misericordiae), được Thánh Tôma Aquinô tóm lại qua động từ: visito, poto, cibo, redimo, tego,
colligo, condo; tiếp đến: consule,
carpe, doce / solare, remitte, fer, ora. Ngài đã giải thích rằng,
chúng tương ứng thực sự với các nhu cầu thực tế của tha nhân.[50]
-
Xét về thân thể, con người cần được giúp đỡ về các nhu cầu luôn luôn cần thiết.
Những nhu cầu này có thể là bên trong (đồ
ăn đồ uống) hay là bên ngoài (áo
mặc, nhà ở). Ngoài ra con người cần được giúp đỡ về các nhu cầu xảy
đến bất ưng, hoặc là bên trong (thuốc
thang chữa bệnh tật) hoặc bên ngoài (thăm viếng lúc bị giam cầm, an táng khi qua đời).
Như thế, 7 công tác thực sự bao gồm các nhu cầu về thân xác của cuộc sống.
-
Bước sang lãnh vực tinh thần, Thánh Tôma Aquinô nói rằng, con người có thể lâm
vào cảnh cơ cực về đường thiêng liêng, mà ta có thể giúp đỡ bằng cách cầu khẩn
xin Chúa đến cứu giúp (tức
là cầu nguyện cho họ). Tha nhân có thể túng thiếu về trí tuệ hay về
khôn ngoan (ta có thể giúp
bằng sự dạy dỗ, khuyên lơn). Tha nhân có thể yếu ớt về tình cảm,
thì ta đến giúp đỡ bằng sự ủi an. Tha nhân có thể sai lạc về cách ăn nết ở, thì
ta giúp họ bằng việc sửa bảo, tha thứ và chịu đựng. Như vậy, 14 công tác bác ái
(14 mối thương người)
đã bao trùm tất cả mọi nhu cầu tinh thần và thể chất của con người rồi.
KẾT LUẬN
Cũng
như Thông điệp Dives in
misericordia,[51]Sắc chiếu Misericordiae vultus
kết thúc với một tư tưởng hướng về Đức Maria, “Mater misericordiae”. Đây là một tước hiệu
đã lưu hành tại đan viện Cluny từ giữa thế kỷ X, và được đưa vào kinh “Salve Regina”.
Đức
Maria là người đầu tiên cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, khi mang
chính Đấng Thương Xót ở trong lòng mình. Thay mặt cho nhân loại, Mẹ đã chúc
tụng Thiên Chúa vì đã tỏ lòng thương xót với loài người trong bài ca “Magnificat”. Mẹ đã tuyên
xưng lòng thương xót mà Chúa dành cho người nghèo cực túng thiếu. Mẹ còn chia
sẻ lòng thương xót của Chúa, hơn nữa khi cùng tham dự vào cái chết của Con Mình
trên thập giá cũng như sự Phục Sinh của Người. Mẹ không giữ riêng hồng ân cho
riêng mình, nhưng chia sẻ cho đồng loại, chỉ dẫn cho họ biết đến cùng nguồn ơn
thương xót: hãy làm điều Chúa dạy, hãy trở về với Chúa (xc. Ga 2,5). Được ủy thác
làm mẹ của môn đệ yêu dấu (Ga
19,26), Đức Maria đón nhận những lời kêu xin của các tín hữu trong
mọi cơn nguy khốn, để cứu giúp họ (Sub
tuum presidium, confugimus...).
Sắc
chiếu của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi đối thoại tôn giáo. Ngài nhắc đến
đạo Do thái và đạo Islam. Ở Việt Nam, chúng ta biết “Từ bi” (một từ ngữ phổ thông hơn là “thương xót”)
không chỉ là nhân đức giữa con người với nhau, mà còn là đặc tính của Đấng Chí
Tôn ở vài tôn giáo nữa (Phật
giáo Bắc Tông và Cao Đài). Thiết tưởng đó là một cơ hội để chúng ta
tìm hiểu sâu xa hơn về lòng thương xót của Thiên Chúa.
***
THƯ TỊCH
Del Cerro
Calderón, G., Misericordia
de Dios, “Gran Diccionario Rialp”, Madrid, 1991.
Doglio,
C., Teologia della
misericordia,http://www.symbolon.net/Temi%20biblici/Misericordia/index.html
Esser,
H.H., Misericordia,
“Dizionario dei concetti bilici del NT”, EDB, Bologna, 1976, 1013-1023.
Romaniuk,
K., La salvezza dell'uomo
come opera dell'amore del Padre e del Figlio, http://www.collevalenza.it/Cesdim/Cesdim.asp?Id=08
Sisti,
A., Misericordia,
“Nuovo Dizionario di Teologia Biblica”, Paoline, Cinisello Balsamo, 1988,
978-984.
Saward,
J., Saint Thomas on Mercy,
“The Canadian Catholic Review”, March 1990.
[1] Tuy biết rằng, Sắc
chiếu Misericordiae vultus (số 2) của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời
gọi hãy “chiêm ngưỡng”
những khía cạnh khác nhau của lòng thương xót của Chúa.
[4] Dựa theo Lê Gia, Tiếng
nói nôm na,TPHCM 1999. Thương:
đau đớn xót xa (cái “thương” đã bao hàm cái “xót” rồi; “xót” có nghĩa mài cọ,
gây ra đau đớn: xót xa, xót ruột). Từ
bi là gì? Từ bi: thương xót, rung động trước nỗi khổ của người khác
(Từ: lòng yêu thương của người trên; bi: buồn); từ thiện: lòng lành và thương người (thiện:
tốt lành). Trắc ẩn:
(Trắc: thương xót; Ẩn: giấu kín) lòng thương yêu chứa đựng trong lòng; không
dằn lòng trước cảnh khổ của người khác. Lân
tuất: thương xót mà giúp đỡ (Lân hoặc Liên: thương xót, thương cảm;
Tuất: thương xót). Lân ái
(yêu mến dịu dàng). Nhân ái:
yêu thương người khác như chính mình (nhân: lòng thương người mến vật; ái:
thương). Nhân hậu:
có lòng yêu thương người và ăn ở đầy đặn (hậu: đầy đặn, lớn lao). Nhân từ: lòng thương yêu
của trên đối với dưới.
[6] Ngoài hai từ vừa kể, còn nhiều từ khác có họ hàng thân
thích, tựa như: “hanan” (đại
lượng), “hamal” (thông cảm), “hus” (nhân từ), “hen” (nhân hậu).
[8] Trong bản Kinh Thánh LXX, danh từ “éleos”
(và những từ có liên hệ) được áp dụng 236 lần cho Thiên Chúa và chỉ
60 lần cho con người.
[9] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Dives in misericordia”,
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, 30-11-1980, số 2.
[20] Các Thánh vịnh đầy dẫy những lời cầu xin Chúa xót
thương, “miserere”:
4,2; 6,3;9,14; 25,16; 26,11; 31,10; 41,5.11; 51,3; 56,2; 57,2; 86,3.16;
119,29.58.132; 123,3.
[22] Thiên Chúa cứu độ chúng ta do lòng yêu thương (“agape”: Rm 5,8tt; 8,31-33; Ep 1,4;
2,4tt), do ân huệ (“kharis”:
Rm 5,15.20).
[23] Một tư tưởng tương tự cũng có thể gặp thấy nơi các tác
phẩm của các Tông đồ khác, chẳng hạn như: 1 Pr 2,10; 3,8; Gc 2,13.
[24] Trong Sắc
chiếu này (số 4), Đức Thánh Cha nhắc đến hai đoạn văn về “misericordia” của Thánh
Giáo Hoàng Gioan XXIII trong ngày khai mạc và của Chân phước Phaolô VI trong
ngày bế mạc Công Đồng Vatican II.
[35] Ví dụ như: Tôi thương xót ông A vì kho thuốc phiện của
ông ấy bị cháy, thì đó không phải là nhân đức.
[38]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, I-II, q.113,9 trưng dẫn từ Thánh Augustin:“maius est quod ex impio fiat iustus, quam creare caelum
et terram, ...caelum enim et terra transibit, praedestinatorum autem salus et
iustificatio permanebit”.
[39] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp “Dives in misericordia”,
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, 30-11-1980, số 4; 7; 12; 14.
[40] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sắc chiếu “Misericordia vultus”, Khuôn mặt xót thương,
11-04-2015, số 20.
[45]Tv 117; Xc. Tv 25,10; 40,11-12; 85,12; 86,15; 89,15; Is
55,3; Gn 4,4; Hs 6,6; Ac 3,22; 2Sm 2,6; 15,20; Mk 7,20.
[50] Xc. Giuse Phan Tấn Thành, OP., Hiểu để sống đức tin, tập
2, Học Viện Đaminh, 2009, tr. 289-295. Xem thêm: St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II,
q.32, a.2.
[51] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Dives in misericordia”,
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, 30-11-1980, số 9.