Lm. P.X. Nguyễn Văn
Nhứt, O.P.
Đời Sống Hôn Nhân-Gia Đình Trở Thành Mối
Quan Tâm Hàng Đầu Của Hội Thánh Khi Bước Vào Thế Kỷ XXI
Tông
Huấn “Niềm Hạnh Phúc Trong Tình Yêu Gia Đình” do Đức Thánh Cha Phan-xi-cô công
bố hôm 8 tháng 4, năm 2016 vừa qua thực ra đã được ấn ký từ ngày 19 tháng 3,
vào thời gian truyền thống phụng vụ tôn kính Thánh Cả Giu-se, gương mẫu và bổn
mạng của các gia đình Ki-tô hữu.
Đây
là thành quả của bao tâm huyết của các vị chủ chăn trên toàn thế giới, hiệp nhứt
với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, trong hai Công Nghị Giám Mục liên tiếp năm 2014
và năm 2015, cống hiến cho Cộng Đoàn Dân Chúa và những người thiện chí thật
lòng yêu mến, cổ cõ và bảo vệ đời sống hôn nhân và gia đình khi nhân loại bước
vào thế kỷ XXI..
Tông Huấn “Niềm Hạnh Phúc Trong Tình Yêu
Gia Đình”
Tông
Huấn nầy gồm có 9 Chương, với phần mở đầu mang tiểu đề “Niềm Vui Của Tình Yêu”
và kết thúc bằng một lời cầu nguyện dâng kính Thánh Gia.
Sứ Vụ Đồng Hành Trong Công Tác Mục Vụ
Dành Cho Đời Sống Hôn Nhân-Gia Đình
Từ số 217 đến số 230, Tông Huấn “Niềm Hạnh Phúc Trong Tình Yêu
Gia Đình” chỉ rõ một chuyển hướng quan trọng trong công
tác mục vụ của Hội Thánh, đặc biệt là mục vụ hôn nhân gia đình. Công tác mục vụ từ nay được thực hiện như là
việc đồng hành của chủ chăn với đàn chiên, cả trong vai trò lãnh đạo, giáo huấn
hay thánh hóa. Khúc ngoặc nầy là lựa
chọn kiên quyết của Hội Thánh trong việc thi hành 3 sứ vụ của Chúa Ki-tô Vương
Giả, Ngôn Sứ và Tư Tế.[1]
Đồng
Hành Như Một Đường Lối Lãnh Đạo
Thông thường, vai trò người lãnh đạo được
hình dung như một vị tướng lãnh dẫn đầu ba quân xuất trận, hoặc từ tổng hành
dinh ra lịnh cho quân sĩ xông lên trận tiền chiến đấu. Đã có thời hình ảnh “tướng lãnh” hoặc “tư
lịnh” như vừa nói trở nên quen thuộc nơi các lãnh đạo của Hội Thánh. Trên toàn thể Hội Thánh thì có đức giáo
hoàng—theo nghĩa chữ là “ông vua đạo”—và các vị hồng y, tựa các quan đại thần
trong hoàng triều. Xuống cấp giáo phận
thì có các tổng giám mục và giám mục, tựa các tổng đốc cai trị các tỉnh thành. Và ở họ đạo thì có các cha xứ nắm quyền như
các quan cấp huyện. Một khi chú trọng
đến việc quản trị sao cho hữu hiệu và thành công, cơ chế lãnh đạo của Hội Thánh
không thể tránh khỏi nạn trì trệ, cứng nhắc theo nguyên tắc luật lệ và nghi
thức. Từ đó, trong con mắt giáo dân, các vị không còn là mục tử mà đã biến
thành những viên chức bàn giấy, làm việc ăn lương theo giờ hành chánh, hoặc
đáng buồn hơn, thành những ông quan cửa quyền, quen quát nạt và trừng trị đám
thảo dân.
Nhưng vai trò mục tử không chỉ đi trước như
người tiên phong, để dọn một lối đi an toàn cho đàn chiên, để chỉ phương hướng
chính xác dẫn đến cỏ non, suối mát, mà còn phải đi bọc hậu, vừa đề phòng sói dữ
tấn công con chiên từ phía sau, vừa nâng đỡ những con chiên yếu sức, thương
tật, giúp chúng bước kịp nhịp đi của cả bầy.
Đôi lúc, vị mục tử chuyên cần đối với lợi ích của con chiên phải ghé
thăm bên cánh trái hoặc vòng qua phía cánh phải, kịp thời uốn nắn—nhẹ nhàng
nhưng cương quyết với chiếc gậy chủ thăn tượng trưng cho quyền bính phục vụ của
Chúa Ki-tô—[2]kịp
thời chấn chỉnh, không để xảy ra tình trạng thiên tả hay thiên hữu trong cộng
đoàn tín hữu.[3]
Từ khi nhận vai trò lãnh đạo Hội Thánh, Đức
Thánh Cha Phan-xi-cô nhiều lần kêu gọi—và không chỉ bằng lời nói suông, nhưng
bằng hành động nêu gương—các mục tử của Hội Thánh phải can đảm ra khỏi dinh cơ
an toàn và tiện nghi, để cùng sát cánh với con chiên trên mọi nẻo đường lữ
hành. Người mục tử phải chấp nhận bị
nhiễm mùi nước tiểu và phân của con chiên, chứ không lo giữ cho mình sạch sẽ,
thơm tho như một viên chức bàn giấy.
Đồng
Hành Như Một Phương Pháp Giáo Dục
Chúa Ki-tô ủy thác trọng trách giáo huấn cho
Hội Thánh, dùng chính thẩm quyền của mình bảo lãnh giá trị lời giảng dạy của
các vị chủ chăn: “Ai nghe lời anh em là nghe lời Ta.”[4] Thái độ vâng phục của giáo dân đối với lời
giảng dạy của các chủ chăn quyết định hậu vận của họ, tùy vào việc chấp nhận
hay từ chối lời giáo huấn của các vi mà họ được hạnh phúc hay phải trầm luân
muôn đời: “Ai nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời.”[5] Một khi đã nghe “lời phán quyết trang trọng
của Hội Thánh”[6]
có nghĩa là vấn đề đã xếp lại. Nhưng
quyền lực phát biểu qua ngôn từ cũng có sức cám dỗ lạm dụng và khả năng tha hóa
con người như quyền lực lãnh đạo. Vì
vậy, công cuộc giáo huấn theo chức năng ngôn sứ của các chủ chăn dần dà biến
thành những công thức, những bài giảng, những bảng đáp số soạn sẵn, áp dụng
được cho mọi người, mọi trường hợp, mọi thời gian—tương tự như thuốc trị bá
bịnh—không cần phải thích ứng, cập nhựt.
Chỉ có Lời Đức Chúa Trời mới có giá trị trường tồn bất biến.[7] Nhưng cho dầu có thẩm quyền tối thượng như
vậy, Sứ Điệp Lời Chúa vẫn phải thường xuyên được Hội Thánh học hỏi và truyền
đạt sao cho vừa chuẩn xác vừa dễ được tiếp nhận trong từng môi trường văn hóa,
xã hội cụ thể.[8] Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải Của Thiên Chúa số
12 dạy:
Tuy nhiên vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã
nhờ con người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy, nên để thấy rõ điều
chính Người muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận
tìm hiểu điều các thánh sử thật sự có ý diễn đạt và điều Thiên Chúa muốn bày tỏ
qua lời lẽ của các vị ấy.
Vậy thì sao các chủ chăn, dầu đứng trên cấp
độ tòa giảng nào, thì rốt cục cũng chỉ là con người phàm và nói lời phàm tục,
lại có thể “vĩnh cửu hóa” những công thức giáo lý thần học bất toàn, giới hạn,
hết sức chủ quan, hết sức thiên vị và nặng cảm tính của mình, biến chúng thành
những mô đất, hầm hố cản trở và gây tai nạn cho con chiên, thậm chí còn dùng
những phán quyết thô cứng và nặng nề ấy như những gông ách không thể mang nổi
mà cột vào cổ họ,[9]
hoặc tệ hơn dùng chúng như những khối đá thẳng tay ném vào cuộc đời của bao con
chiên yếu đuối, bịnh tật đáng thương.[10]
Tông Huấn “Niềm Hạnh Phúc Trong Tình Yêu
Gia Đình” mặc nhiên xác nhận trong Hội Thánh vốn tồn tại cung cách giảng dạy
trái ngược với tinh thần Tin Mừng của Chúa Ki-tô và quyết định trở về với cung
cách giáo huấn gần gũi con người cụ thể đang không ngừng nỗ lực để sống còn
trong bao thách đố của cuộc đời:
Trong lịch sử Hội Thánh có 2 cách suy nghĩ
luân phiên nhau: dứt nghĩa đoạn tình và phục hồi tái hợp. Đường lối của Hội Thánh, từ thời Công Đồng
Giê-ru-sa-lem, vẫn luôn là đường lối của Chúa Giê-su, con đường thương xót và
phục hoàn…Đường hướng của Hội Thánh không phải là kết án chung thân bất kỳ ai;
trái lại, đó là nghĩa cử rưới ngập dầu thương xót của Thiên Chúa trên tất cả
những ai thành tâm xin lãnh nhận linh dược ấy…Bởi lẽ đức ái chân chính không bị
lệ thuộc vào công trạng, không đặt điều kiện và hoàn toàn miễn phí. Do đó, cần phải tránh lối xét xử không chút
quan tâm đến tính cách éo le của bao cảnh ngộ khác nhau, và, do tính chất khẩn
thiết đó, phải chú ý đến tình trạng con người bị tuyệt vọng vì hoàn cảnh của
họ.[11]
Đồng
Hành Như Một Sứ Vụ Truyền Giảng Tin Mừng
Qua
Tông Huấn “Niềm Hạnh Phúc Trong Tình Yêu Gia Đình”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã
thực sự “xoay trục” đường hướng mục vụ của Hội Thánh dành cho đời sống hôn nhân
gia đình nói riêng, và cho toàn thể đời sống và hoạt động của Dân Chúa nói
chung. Từ đây, công cuộc đồng hành của
Hội Thánh là cung cách mới, như sứ vụ công bố Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Ki-tô
cho nhân loại.
Tương
tự như sứ vụ truyền giảng Tin Mừng, một sứ vụ phải được Hội Thánh cần mẫn, chí
thú thi hành với tất cả nhiệt huyết, bất kể điều kiện thiên thời, địa lợi nhân
hòa ra sao,[12] thì
sứ vụ đồng hành cùng đàn chiên Chúa phải là ưu tiên hàng đầu của các mục tử
đang phục vụ trong toàn thể Hội Thánh:
Vào
lúc nầy, công cuộc chăm sóc mục vụ dành cho các gia đình phải mang tính chất
sâu xa như của sứ vụ truyền giảng Tin Mừng, nghĩa là ra đi tìm đến tận nơi con
người đang sinh sống. Chúng ta không còn
có thể hành xử như một xưởng máy, ồ ạt sản xuất ra những khóa huấn luyện song
phần lớn trong số đó bị bỏ mặc cho phẩm chất yếu kém.[13]
Đã
là sứ vụ thì không còn là việc làm hành chánh, theo lịch cố định, theo thời vụ,
theo sự kiện, càng không chạy theo thành tích, chỉ tiêu, hay bất kỳ mục tiêu vụ
lợi phàm tực nào.
Đơn
giản vì việc thi hành sứ vụ Tin Mừng là cuộc sống và lý do hiện hữu của Hội
Thánh:
Chúa
Ki-tô là ánh sáng của nhân loại; do đó, Thánh Công Đồng nầy, cùng nhóm họp
trong Chúa Thánh Thần, luôn thiết tha mong ước có thể đem đến cho mọi người ánh
sáng của Chúa Ki-tô được nhìn thấy chiếu tỏa rạng ngời từ Hội Thánh, nhờ công
cuộc công bố Tin Mừng của Người cho tất cả mọi thụ tạo. Bởi lẽ, trong Chúa Ki-tô, Hội Thánh vốn tự
bản tính là một bí tích—một dấu hiệu và một khí cụ giúp cho đời sống hiệp thông
với Thiên Chúa và cho công cuộc hiệp nhứt giữa loài người với nhau—cho nên ở
đây, vì thiện ích của các tín hữu và của toàn thể thế giới, và theo truyền thống
do các Công Đồng cố cựu thiết lập, Hội Thánh chủ trương trình bày hết sức minh
bạch bản tính và sứ vụ phổ quát của mình.[14]
[1] Xc Hiến Chế Tín Lý “Ánh Sáng Muôn Dân”, các số 25, 26, và
27; Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, các số 888 đến 896.
[2] Xc Mt 20:24-28.
[3] Xc tài liệu nến tảng giúp
hình thành Tông Huấn “Niềm Hạnh Phúc Trong Tình Yêu Gia Đình” là “Bản Tường Trình Chung Kết Công Nghị Giám Mục
Về Gia Đình 2015”, số 77: “Bằng một chia sẻ đầy cảm xúc, Hội Thánh coi như
đó là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của chính mình, những niềm vui và
hy vọng, những ưu sầu và lo lắng của các gia đình. Đối với Hội Thánh, đứng cạnh các gia đình như
một người đồng hành có nghĩa là chấp nhận thái độ biết khôn ngoan thích ứng: có
lúc cần phải ở bên cạnh và in lặng lắng nghe; có lúc cần tiên lên phía trước để
chỉ con đường phải bước đi; có lúc phải đi phía sau, hỗ trợ và khích lệ.”
[4] Lc 10:16.
[5] Ga 5:24.
[6] Theo thành ngữ La Tinh “ex
cathedra”, nghĩa chữ là “lời phán quyết công bố từ ngai tòa”, biểu tượng của
quyền làm thầy dạy muôn dân, gọi là “Magisterium.”
[7] Xc Mt 24:35.
[8] Xc 13:52; “Hiến
Chế Tín Lý Về Mạc Khải Của Thiên Chúa” số 13.
[9] Xc Mt 23:4.
[10] Xc “Niềm Hạnh Phúc Trong
Tình Yêu Gia Đình”, số 122.
[11] “Niềm Hạnh Phúc Trong
Tình Yêu Gia Đình”, số 296.
[12] Xc 2 Tm 4:1-5.
[13] “Niềm Hạnh Phúc Trong
Tình Yêu Gia Đình”, số 230.
[14] Ánh Sáng Muôn Dân, số 1.