Đức Gíáo hoàng Lêô XIII |
Ngày này (15.5.) năm xưa (1891) Đức Giáo hoàng Lêô
XIII ban hành thông điệp thời danh Rerum Novarum, thông điệp xã hội đầu tiên
của Giáo hội Công giáo, mở ra một “con đường mới” cho Giáo hội (Tóm lược
HTXHCG, 87). Thuật ngữ này làm ta nhớ đến bài tân ca của Thánh Augustinô: “Đường mới khách đường mới hát khúc tân ca”. Người Đông phương chúng ta thì có câu: Đường xa thiên lý bắt đầu bằng bước chân đầu tiên. Đức Lêô đã đi những bước đầu tiên trên “con đường thiên lý” đó và tất cả chúng
ta đều là “khách đường mới”.
Ngày 15.5 đã trở thành một cột mốc quan trọng đến
nỗi hầu như cứ đúng “ngày này năm xưa” nhiều thập niên sau, các người kế vị Đức
Lêô đều ban hành một văn kiện kỷ niệm:
- Đức Piô XI ban hành Thông điệp Tứ thập niên
ngày 15.5.1931
- Đức Gioan XXIII ban hành Thông điệp Mẹ và Thày
ngày 15.5.1961
- Đức Phaolô VI ban hành Tông thư Bát thập niên
ngày 14.5.1971
- Đức Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp Lao
động Con người ngày 14.9.1981 (lẽ ra phải là vào ngày 15.5.1981 nếu hai
ngày trước đó đã không xảy ra biến cố ngài bị mưu sát tại Quảng trường
Thánh Phêrô)
- Đức Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp Bách
chu niên ngày 1.5.1991
Để kỷ niệm 121 năm ngày ban hành Thông điệp Rerum Novarum, chúng tôi mời các bạn đọc bài “Tình trạng bi đát của công nhân” trích từ quyển Một Cái Nhìn Mới về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo của Hervé Carrier, S.J., do Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc và các đồng sự dịch, Định Hướng tùng thư xuất bản tại Pháp năm 2000, phân tích và giới thiệu về thông điệp này.Lêo XIII, Rerum
Novarum (15.5.1891)[1]
Tình
trạng bi đát của công nhân
Một sứ điệp của Giáo Hội để giải quyết
tình hình bất công của giới thợ thuyền
Chúng ta đã thấy trong Phần thứ nhất [Các
Nguồn Phát Sinh và Ý Nghĩa Hiện Nay] tầm quan trọng có tính cách lịch sử của Thông-điệp Rerum Novarum (1891), do Đức Lêo XIII công bố sau khi
tham khảo kỹ lưỡng và chuẩn bị lâu dài.
Thông-điệp nói về quyền lợi và nghĩa vụ của tư bản và lao động.
Thông-điệp bài bác xã hội chủ nghĩa tức là lý thuyết chuyển di sở hữu tư nhân
cho nhà nước, bởi vì sở hữu tư nhân là một quyền tự nhiên và là căn bản cần có
cho một nền kinh tế trong đó con người tự do hưởng thụ thành quả công khó của
mình.
Thuốc trị cho hết "cảnh nghèo khó của dân chúng" chỉ có thể có
khi nào có sự hợp tác chặt chẽ giữa Giáo-hội, Nhà-nước, các Hiệp-hội tự do mà
quan trọng nhất là các nghiệp đoàn.
Kiểu mẫu xã hội trong ý
tưởng của Đức Giáo-hoàng là một xã hội xuất phát từ giáo-huấn của Đức Kitô. Quan điểm đó hướng dẫn học thuyết xã
hội của Giáo-hội nơi Đức Lêô XIII.
Những đoạn đầu của Thông-điệp mô tả thảm cảnh xã hội thời ấy. Phân tích
rất là thực tế, nhấn mạnh cùng lúc các vấn nạn xã hội, chính trị, kinh tế và
luân lý. Ngay ở phần đầu, Thông-điệp phản ảnh lối suy tư chính xác và có phương
pháp, đặt trên nền tảng suy tư thần học
và phân tích xã hội ;những đặc tính
đó cống hiến một lối tiếp cận mới. Người ta có thể nhận rõ có sự tham gia của
các nhà chuyên môn về khoa học xã hội, sử học xã hội và thần học. Đức Thánh Cha
đã can thiệp vì phải chứng kiến cảnh nghèo khó của đại đa số quần chúng. Do đó,
giáo huấn của Giáo-hội được đón nhận như là một giải đáp của Kitô giáo đối với
các biến chuyển xã hội đáng lo ngại và các nhu cầu nhân sinh.
"Khao khát đổi mới từ lâu xâm nhập và kích động xã hội, sớm muộn gì
cũng lan tràn từ khu vực chính trị qua khu vực kế cận là kinh tế xã hội. Thật
thế, tiến bộ kỹ nghệ không ngừng, giao lưu mở rộng, tương quan chủ-thợ biến
đổi, tình trạng giàu có của một số nhỏ bên cạnh cảnh nghèo khó của đại đa số, ý
thức của thợ thuyền nhạy bén về hoàn cảnh của chính mình, và họ biết hợp đoàn
hơn, không nói đến sự suy đồi phong hóa, tất cả đưa đến kết quả cuối cùng là
một xung đột đáng lo ngại. Ở khắp mọi
nơi, người người bồn chồn khắc khoải, bấy nhiêu cũng đủ chứng minh có nhiều vấn
đề quan hệ đang đặt ra. Tình trạng ấy tạo lo âu và huy động tài năng của các
nhà thông thái, khôn ngoan của các nhà hiền triết, các cuộc bàn cãi của những
nhóm quần chúng, óc tinh tường của nhà làm luật cũng như ý kiến của người cai
trị; lúc nầy đây tâm trí mọi người đang khắc khoải giao động.
Vì thế, hỡi chư huynh, vì lợi ích Giáo-hội và phần
rỗi chung của nhân loại, qua các Tông thư, Chúng tôi đã đề cập đến các vấn đề
như chủ quyền chính trị, tự do con người, quan điểm Kitô giáo trong việc điều
hành các nước và nhiều đề tài tương tự, để khi cần, bác khước những dư luận sai
lầm và lừa gạt; nay, cũng trong một mục tiêu ấy, Chúng tôi bàn thảo với chư
huynh về hoàn cảnh của giới lao động. Đề tài nầy, thực ra, Chúng tôi tùy dịp đã
từng nói qua nhiều lần; nhưng trách nhiệm Giáo-hoàng buộc Chúng tôi phải trình
bày rõ ràng và sâu rộng hơn trong Thông-điệp nầy, để nêu lên những nguyên tắc
cho một giải pháp thích ứng với công bằng và lẽ phải. Vấn đề không dễ giải
quyết và cũng không phải là không nguy hiểm. Thật vậy, khó mà minh định rõ rệt
những quyền lợi và bổn phận làm chuẩn mực cho các mối tương quan giữa người
giàu và giới vô sản, tư bản và thợ thuyền. Mặt khác, vấn đề cũng đầy cạm bẫy,
vì thông thường, nhiều người thích làm loạn và nhiều mưu đồ tìm cách xuyên tạc
ý nghĩa của sự việc và lợi dụng hoàn cảnh để kích động dân chúng và gieo cảnh
rối loạn".
Giáo huấn của Đức Thánh-cha tố cáo
bất công xã hội, tức là tình trạng không thể chịu đựng được của công nhân, nạn
nhân của tham vọng của các chủ nhân mà các cơ cấu chính phủ cũng như tổ chức
thợ thuyền không thể nào kiểm soát được. Chính bản tố cáo hệ thống kinh tế
không thể kiểm soát được là bối cảnh Thông-điệp của ngài.
"Dù sao, Chúng tôi quả quyết, và hết mọi người
đều đồng ý, là cần phải giúp đỡ những người yếu thế, bởi vì phần lớn sống trong
tình trạng khốn đốn, nghèo nàn bất xứng bằng những biện pháp hữu hiệu, nhanh
chóng. Thế kỷ vừa qua đạp bỏ các cơ cấu cũ từng bảo vệ cho họ mà không tạo được
cái gì thay thế. Tất cả nguyên tắc và mọi ý hướng tôn giáo biến mất nơi khuôn
khổ các luật lệ và định chế công cộng; vì thế, công nhân dần hồi bị lẻ loi và
không thể tự vệ, mặc cho chủ nhân vô liêm và lòng tham của cạnh tranh bóc lột.
Lại còn nạn tiền vay nặng lãi làm tai họa gia tăng. Giáo-hội nhiều lần từng lên
án tệ trạng nầy, nhưng lớp người ham lời vô độ vẫn tiếp tục tung hoành dưới một
hình thức khác. Thêm vào đó phải kể đến nạn độc quyền lao động và thương phiếu
do một nhóm thiểu số giàu có chiếm hữu, áp đặt lên đầu lên cổ khối người vô
sản".
Đức Giáo-hoàng giải thích lý do có thể biện minh cho việc Giáo-hội can thiệp
vào lãnh vực sinh hoạt xã hội: Giáo-hội có quyền và có bổn phận lên tiếng, vì
người ta khó lòng tìm được giải pháp nào cho các vấn nạn của các tầng lớp lao
động ngoài sự can thiệp của tôn giáo và của Giáo-hội. Chỉ có giáo huấn của
Phúc-âm mới có thể đem lại một liều thuốc cho cuộc khủng hoảng hiện nay.
"Chúng tôi mạnh dạn đề cập chủ đề nầy, và
chúng tôi có toàn quyền để làm việc ấy, vì sự việc trở thành gia trọng đến độ
nếu không có sự can thiệp của tôn giáo và Giáo-hội, thì không thể nào có được
một giải pháp hữu hiệu. Hơn ai hết Chúng tôi lại được giao phó trách nhiệm bảo
vệ tôn giáo và hành động trong khuôn khổ Giáo-hội, nên nếu Chúng tôi im lặng
thì hẳn mọi người sẽ cho rằng Chúng tôi chểnh mảng phần vụ của mình. Hẳn nhiên,
một vấn đề gia trọng tầm cỡ nầy còn phải cần đến công sức của nhiều tác nhân
khác nữa; Chúng tôi muốn nói đến các kẻ nắm quyền trị các nước, các chủ nhân và
lớp người có của, ngay cả thợ thuyền là lớp người trong cuộc. Nhưng Chúng tôi
không ngại xác quyết rằng ngoài Giáo-hội họ sẽ bất động. Thật thế, chính Giáo-hội
múc lấy nơi Phúc-âm những giáo huấn đủ sức dập tắt các cuộc tranh chấp, hoặc ít
nhất là làm cho chúng dịu lại bằng cách tẩy trừ những gì quá gai góc, chua
chát; Giáo-hội không phải chỉ biết soi sáng tâm trí con người bằng những lời
dạy bảo của mình, mà còn chỉnh đốn đời sống và phong cách của mỗi một người;
qua nhiều tổ chức bác ái, từ thiện, Giáo-hội cố gắng cải thiện số phận của lớp
người nghèo khổ; Giáo-hội chủ trương và tha thiết muốn tất cả các giai cấp xã
hội chung sức, chung lòng giải quyết vấn đề thợ thuyền một cách tốt đẹp nhất;
cuối cùng, Giáo-hội cho rằng luật pháp và chính quyền phải thận trọng, khôn
ngoan tích cực đóng góp vào việc giải quyết tình trạng nầy".
Giáo-hội không những đưa ra phương thuốc chữa trị, mà còn hành động cụ
thể bằng cách phổ biến học thuyết của
mình và làm cho lòng trí con người thay đổi.
"Tuy thế, Giáo-hội không phải chỉ biết nêu lên giải pháp, nhưng
hướng dẫn con người thực hiện và chính mình ứng dụng toa thuốc để trị bệnh.
Giáo-hội giáo huấn và dẫn dắt con người
dựa trên nguyên tắc và học thuyết của mình; qua thừa tác vụ của các giám mục và
giáo sĩ, Giáo hội phổ biến sâu rộng những nội dung cao đẹp ấy. Giáo-hội còn cố
đi vào tâm hồn con người và cổ súy con người biết tuân giữ và thực thi lời dạy
của Chúa. Điểm nầy chủ yếu và quan trọng đặc biệt, vì hầu như nó tóm gọn tất cả
nội dung của giải pháp, và công việc ấy hẳn cần đến Giáo-hội. Những dụng cụ
Giáo-hội có được để lay chuyển tâm hồn con người, Giáo-hội đã tiếp nhận từ nơi
Chúa Giêsu Kitô; và vì thế các dụng cụ đó từ bên trong có các hiệu năng, sức
mạnh nơi Chúa. Đấy chính là phương thế duy nhất có thể đi sâu được vào tận đáy
lòng người, thúc đẩy con người vâng phục những mệnh lệnh của bổn phận, chế ngự
các đam mê, yêu mến Thiên Chúa và người bên cạnh mình với lòng bác ái vô bờ,
can đảm bẻ gẫy các xiềng xích đang trói buộc bước chân mình trên con đường đạo
hạnh".
Lịch sử
đã cho thấy khả năng cải hóa của Sứ-điệp Phúc-âm trên các định chế và các xã
hôi. Canh tân xã hội có nghĩa là quay trở lại những nguyên tắc đã tạo cho xã
hội có được sức sống và hứng khởi tiến bước.
"Ở đây chỉ cần nhìn qua về các thí dụ của thời
thượng cổ. Những sự việc chúng tôi nhắc đến ở đây không ai có thể phủ nhận.
Thật thế, xã hội con người đã từng được các định chế Kitô giáo canh tân; cuộc
canh tân đó đã nâng cao trình độ nhân loại biết cải tử hoàn sinh, và đưa nó lên
một cấp hoàn hảo chưa từng thấy bao giờ; thiện ích tối thượng đó chính là Đức
Giêsu Kitô Đấng nguyên lý và là cứu cánh của nhân loại; mọi sự đã phát xuất từ
Ngài thế nào thì cũng sẽ phải quay về Ngài như thế. Khi Phúc-âm chiếu rọi trên
thế giới, khi các dân tộc biết được mầu nhiệm cao cả của Ngôi Lời nhập thể và
cứu độ con người, thì sự sống của Đức Giêsu Kitô, vừa Thiên Chúa và vừa là
người, đi vào các xã hội và thấm nhập sinh hoạt các xã hội đó bằng đức tin,
giáo huấn và lề luật của Ngài. Vì thế, nếu cần phải chữa lành xã hội loài
người, thì hẳn phải quay về nếp sống và các định chế của Kitô giáo. Muốn phục
hoạt một xã hội nào bất kỳ đang hồi suy thoái, phương cách hữu lý là đưa xã hội
ấy về lại căn nguồn của mình. Vì sự toàn
hảo của mọi xã hội do việc xã hội ấy đeo đuổi và đạt cứu cánh mà nó được lập
nên: làm thế nào để mọi tác động và hành vi của cuộc sống xã hội đều phát sinh
từ chính nguyên lý khai sinh ra xã hội ấy. Vậy nên, đi lạc xa cứu cánh của
mình, đó là đi vào sự tự hủy diệt; trở lại căn nguồn, là tìm lại sự sống. Và
điều mà chúng tôi nói đến toàn bộ xã hội, thì cũng áp dụng cho giai cấp công
dân sống nhờ vào sức lao động của mình và tạo thành khối đa số lớn lao nhất".
Giáo-hội ưu lo thăng tiến con
người về mặt siêu nhiên thì cũng biết săn sóc cho lợi ích trần thế nữa. Giáo
huấn luân lý Kitô giáo dẫn đưa con người đạt được thịnh vượng vật chất.
"Đừng nghĩ rằng Giáo-hội mải lo cho phần hồn,
mà bỏ quên cuộc sống vật chất, trần thế. Đặc biệt đối với giới lao động, Giáo
hội tận lực đưa họ thoát khỏi tình cảnh cơ cực và tạo cho họ có được số phận
tốt đẹp hơn. Việc Giáo hội cố sức dẫn dắt con người sống đạo hạnh, qua lời nói
và hành động của mình, không hẳn là đóng góp thứ yếu vào công cuộc nầy. Khi
phong hóa Kitô giáo được xã hội tôn vinh, thì tự nhiên tạo ảnh hưởng thuận lợi
cho cuộc sống phồn vinh trần thế. Thật vậy, cuộc sống lành mạnh được Thiên Chúa
dẫn dắt là cội nguồn mọi phúc lộc; nó tiết chế lòng đam mê vật chất vô độ và
nỗi thèm khát dục vọng, là hai tai ương thường hay gieo rắc khổ đau và chán
chường ngay trong cảnh phú quí giàu sang [2]; cuối cùng nó biết bằng lòng với nếp sống
và của ăn thanh đạm, biết tiết kiệm để bù đắp cho lợi tức còn kém cỏi, xa lánh những thói hư
tật xấu không những phá tan cảnh gia đình bình thường, mà làm tiêu tan những
sản nghiệp khổng lồ cũng như gia tài lớn lao nhất"
Xuyên
qua các hội đoàn, bằng việc cứu trợ trực tiếp đến những người nghèo khổ nhất,
Giáo-hội phát huy truyền thống bác ái Kitô giáo lâu đời, thực thi một nhân đức
cần thiết vào lúc nầy và mãi mãi. Không một hệ thống cứu trợ nào của quốc gia
có thể thay thế công việc bác ái.
"Ngoài ra, Giáo-hội còn trực tiếp tạo dựng
hạnh phúc cho các từng lớp dân chúng bất hạnh bằng việc sáng lập và trợ giúp
các cơ sở mà Giáo-hội thấy cần thiết để xoa dịu nỗi khổ của họ; và trong những
công tác từ thiện như thế nầy, Giáo-hội đã tận tâm tận lực đến nỗi chính kẻ thù
của Giáo-hội cũng phải thán phục. Chúng ta thấy lòng bác ái tương trợ nơi các
Kitô hữu thời nguyên thủy lên đến mức nhiều kẻ giàu có đã bỏ hết gia sản của
mình để giúp đỡ người nghèo. "Vì thế không ai trong họ gặp cảnh túng thiếu"
[3]; các tông đồ đã từng ủy thác cho các trợ tế phân
phối mỗi ngày của dâng cúng, nên chức vụ nầy đã được lập ra đặc biệt cho mục
tiêu liên hệ; và chính cả thánh Phao-lô, mặc dù gánh vác bao nhiêu công việc bề
bộn của các cộng đoàn, cũng đã không ngại đích thân mang của cứu trợ cho những
Kitô hữu nghèo túng. Những của trợ giúp tương tự do tín hữu tự động dâng cúng
trong mỗi một cộng đồng; Tertulianô gọi của dâng cúng đó là "kho hành
thiện" vì của ấy được dùng "để nuôi dưỡng và chôn cất kẻ túng thiếu,
các trẻ nam nữ mồ côi nghèo, các người tôi tớ già lão, các nạn nhân chìm tàu" [4]. Dần hồi kết tạo thành gia sản mà Giáo-hội
luôn ân cần gìn giữ như là của cải riêng cho gia đình những người nghèo khổ.
Giáo-hội còn tìm cách tránh cho người túng thiếu khỏi phải cảnh nhục nhã khi
ngửa tay nhận của cứu trợ. Vì Giáo-hội là Mẹ của người giàu cũng như người
nghèo, đã biết thúc giục các nghĩa cử bác ái, để lập ra các nhà dòng và vô số
các cơ sở phục vụ khác sẵn sàng đỡ đần dân chúng đang gặp cảnh khốn cùng. Ngày
nay hẳn có kẻ ở ngoài tôn giáo cũng không ngại tìm cách dùng cả công việc bác
ái tốt đẹp nầy để kèn cựa với Giáo-hôi. Các nước đã từng tạo ra một lối trợ
giúp từ thiện để thay cho nỗ lực bác ái của Kitô giáo; nhưng bác ái Kitô giáo,
hoàn toàn tận tâm tận lực và không có hậu ý gì, chỉ nhằm lợi ích cho đồng loại,
nên không có một tổ chức nào do con người làm ra thay thế dược. Chỉ có Giáo-hội
mới có hạnh đức đó, vì hạnh đức thật sự phát xuất từ trái tim rất thánh của Đức
Giêsu Kitô; mà lạc loài xa Đức Kitô thì cũng xa rời Giáo-hội của Ngài"
Điểm
đặc sắc nơi giáo huấn của Đức Giáo-hoàng là chủ và thợ có thể dùng các hiệp hội
của mình để gây ảnh hưởng quyết định trong việc làm nên một xã hội công bình
hơn. Những hiệp hội quan trọng nhất là những hội hoặc nghiệp đoàn. Nhà nước phải bảo đảm quyền hội đoàn và ngăn
cản những tổ chức bất hợp pháp. Thời đại chúng ta đòi hỏi có những nghiệp đoàn
với một vai trò mới mẻ, mà chính quyền phải bảo vệ.
"Nhưng vị trí hàng đầu phải kể đến các nghiệp
đoàn, vì nghiệp đoàn hầu như liên kết tất cả các nỗ lực nầy. Tổ tiên chúng ta
từ lâu đã từng biết đến lợi ích của các phường hội như thế; thợ thuyền nhờ đó
mà học được những điều hay, những kỹ xảo nghề nghiệp, có được một niềm hãnh
diện và một cuộc sống mới. Ngày nay con người được học nhiều hơn, cách sống văn
minh hơn, những nhu cầu cho cuộc sống hằng ngày gia tăng, thì các nghiệp đoàn,
công đoàn hẳn phải thích ứng với những điều kiện sinh hoạt mới. Vì thế, chúng
tôi hân hoan chứng kiến nhiều hội đoàn như thế được thành lập khắp nơi, hội chỉ
gồm các công nhân với nhau, hoặc hội qui tụ vừa thợ vừa chủ; mong sao chúng
phát triển nhanh chóng về lượng số cũng như về phẩm chất sinh hoạt. Mặc dù
nhiều lần Chúng tôi đã bàn đến, nhưng ở đây Chúng tôi nhấn mạnh tính cách đứng đắn hợp thời và
quyền hiện hữu của các tổ chức nầy, cũng
như giúp định hướng phương thức tổ chức và chương trình sinh hoạt của
chúng".
Những
tổ chức nầy xây dựng trên luật tự nhiên và dựa trên công ích. Nhà nước không có
quyền vi phạm các quyền ấy. Giáo hoàng
nhắc lại ở đây học thuyết của thánh Tôma Aquinô.
"Giữa các hiệp hội nhỏ nầy và xã hội lớn hơn,
có những khác biệt sâu xa phát xuất từ mục đích chúng nhắm đến. Cứu cánh của xã
hội dân sự bao trùm tất cả mọi công dân, vì nó là công ích, nghĩa là một lợi
ích mà tất cả mọi người và mỗi người có quyền tham gia theo một tỉ lệ cân xứng.
Vì vậy người ta gọi là lợi ích công cộng, hay lợi ích chung, nghĩa là "xã
hội ấy qui tụ người ta lại để làm nên một nước". Trái lại, các hội đoàn
được hình thành trong khuôn khổ của xã hội đều được xem là tư, và thật đúng là
riêng tư vì mục tiêu trước mắt của chúng
là lợi ích cá biệt và dành riêng cho các thành viên liên hệ. "Hội đoàn tư
là hội được tổ chức để hướng đến một mục đích tư, như khi hai hoặc ba thành
viên qui tụ lại để cùng nhau hành nghề thương mãi".
Các hội tư chỉ có thể hiện hữu trong lòng của xã
hội dân sự, vì chúng là những bộ phận làm nên của xã hội dân sự ấy, do đó, một
cách tổng quát và dựa vào tự bản chất
của chúng, khó lòng chấp nhận việc chính quyền nhà nước từ khước sự có mặt của
các hội nầy. Quyền hiện hữu của chúng phát sinh từ luật tự nhiên, và xã hội dân
sự được thiết lập nên để bảo vệ luật tự nhiên, chứ không phải để hủy bỏ luật
ấy. Vì vậy một xã hội dân sự cấm đoán các hội tư là tự chống lại bản tính mình,
bởi lẽ tất cả các hội công hoặc tư, đều phát sinh từ một nguyên lý chung, đó là
bản tính tự nhiên kết thành "hội" thành "đoàn" của con
người. Hẳn nhiên, có những hoàn cảnh bất thường cho phép luật pháp chống lại
việc thành lập một tổ chức tương tự: Nếu một hội đoàn có chủ trương theo đuổi
một mục đích thực sự chống lại sự chính đáng, công bằng và an ninh quốc gia,
thì chính quyền có quyền ngăn cản tổ chức đó thành lập; và nếu đã thành lập,
thì có quyền giải tán. Nhưng cần lưu ý là chính quyền trong mọi trường hợp chỉ
có thể hành động một cách hết sức thận trọng, để tránh việc chà đạp các quyền
của công dân và lạm dụng lợi ích công cộng mà quyết định một điều gì có thể
trái với lẽ thường. Vì một luật lệ chỉ đáng tuân theo khi nó ăn khớp với lẽ
thường và luật vĩnh cửu của Thiên Chúa".
Về các
nghiệp đoàn, Giáo-hoàng quan niệm rằng đó là những phương tiện tạo tiến bộ xã hội và phồn vinh kinh tế theo tinh thần
Kitô giáo với sự hỗ trợ của Giáo-hội.
"Một cách tổng quát, tổ chức và điều hành các
nghiệp đoàn lúc nào cũng phải nhằm làm sao giúp cho mỗi một đoàn viên có được
những phương tiện thích ứng để đạt được mục tiêu họ mong muốn, bằng con đường
thích hợp và ngắn nhất; mục tiêu ấy là gia tăng tối đa những tiện ích cho cuộc
sống thể xác, tinh thần và gia đình. Tuy thế, trước tiên phải nhắm mục tiêu
chính yếu đó là sự thiện toàn về mặt đạo đức và tôn giáo: Chính mục tiêu đó
phải điều hành toàn bộ sinh hoạt kinh tế của xã hội; nếu không, xã hội sẽ sớm
băng hoại và đi vào tình trạng chối bỏ tôn giáo. Thợ thuyền có được ích gì khi
dùng nghiệp đoàn để có được cuộc sống vật chất sung túc, mà của ăn tinh thần
thiếu thốn đến độ tạo nguy cơ cho cuộc sống của hồn mình? Con người có được
toàn vũ trụ, mà mất linh hồn, thì ích gì? [5] Đây là nét khác biệt mà Chúa
Giêsu Kitô muốn người ta nhận ra nơi Kitô hữu với người ngoại giáo: "Người ngoại giáo tìm kiếm mọi sự... còn
các con, trước hết các con hãy tìm Nước Chúa, và mọi sự sẽ ban cho các con dư
đầy" [6]. Vậy, nên, khi đã chọn Thiên Chúa
làm điểm khởi phát, thì cần lưu ý đến việc đào tạo tôn giáo, để mọi người biết được bổn phận của mình đối với Ngài:
điều gì phải hy vọng, điều gì phải làm để được sống đời đời, cần phải cẩn thận
đưa vào chương trình. Nên giúp họ biết cách chống lại các dư luận sai trái và
mọi thứ tệ đoan hư đốn. Nên khích lệ họ phụng vụ Thiên Chúa, có lòng đạo đức,
nhất là giữ việc tham dự thánh lễ ngày chủ nhật và các ngày lễ trọng. Nên chỉ
cho họ biết kính yêu Giáo-hội, là mẹ chung của mọi người Kitô hữu, nghe theo
lời dạy bảo, tham dự các phép bí tích, là nguồn suối thần thánh thanh tẩy vết
dơ tâm hồn và đổ tràn ơn thánh thiện".
Thông-điệp
nhấn mạnh rằng giáo huấn xã hội của Giáo-hội là một lời kêu gọi để hành động trong lãnh vực xã hội, một lời mời tha thiết
thúc giục người công giáo dấn thân, cổ võ công lý, để bảo vệ cho thợ thuyền.
Vai trò liên kết giữa Giáo-hội, các hội đoàn và nhà nước được Đức Lêô XIII đặt
nổi như một trong những điểm then chốt giáo huấn của ngài.
"Hẳn nhiên, cần phải ca ngợi nhiệt tâm của
nhiều vị Giáo-hoàng trước chúng tôi; các ngài ý thức được những nhu cầu của
thời thế, sâu sát thực tế xã hội để tìm ra được một giải pháp đứng đắn giúp cho
giai cấp lao động thăng tiến. Các ngài tự nguyện làm người bênh vực cho giới lao động, tìm hiểu phúc lợi gia đình
và cá nhân giới nầy, thiết định một cách công minh các mối tương quan đôi đường
giữa chủ và thợ, gợi lên cho đôi bên nhớ lại bổn phận của họ và biết tuân giữ
những lời Chúa dạy; đó là những giáo huấn giúp con người biết tiết độ và lên án
mọi điều quá lạm, bảo đảm được mối đồng tâm và cảnh thái hoà trong các nước
cũng như giữa những tập thể người và hoàn cảnh hết sức dị biệt. Múc lấy cảm
hứng từ những ý tưởng nầy, có những con người đức độ đã thường xuyên tụ họp để
trao đổi quan điểm, củng cố sức mạnh và quyết định các chương trình hành động.
Một số người khác lại nổ lực thành lập các nghiệp đoàn theo từng ngành nghề và
vận động qui tụ thợ thuyền; họ giúp ý kiến và đóng góp tài chánh cho những
người chủ xướng để công việc chung được qui củ và mang lại lợi ích. Về phía các
giám mục, các ngài khích lệ những nỗ lực nầy và đứng ra bảo trợ: do uy tín và sự
hỗ trợ của các ngài, rất nhiều linh mục dòng, triều, tận tâm chăm sóc phần
thiêng liêng trong các nghiệp đoàn. Cuối cùng không thiếu những người công giáo
có tài sản giàu có nhưng tự nguyện làm kẻ đồng hành với thợ thuyền, chẳng ngại
chi tiêu của cải để thành lập và phổ biến rộng rãi các hội đoàn; giúp giới nầy
có cuộc sống hiện tại thoải mái hơn, cũng như bảo đảm cho họ lúc về hưu có cuộc
sống xứng đáng hơn. Có quá nhiều nhiệt tâm, quá nhiều nổ lực thiết thực đã từng
được thực hiện tại nhiều nước khác nhau, đem lại lợi ích rất to lớn và mọi
người đều biết, chúng tôi không cần phải đi vào chi tiết ở đây. Chúng tôi thấy
được đây là một điềm tốt cho tương lai, và tin rằng các nghiệp đoàn nầy sẽ mang
lại nhiều thành quả tốt đẹp, miễn là chúng tiếp tục phát triển và biết thận
trọng trong vấn đề tổ chức điều hành. Ước gì nhà nước biết bảo vệ các hội đoàn
đã được xây dựng hợp pháp như thế; và đừng xen vào nội bộ tổ chức của các hội
đoàn nầy; đừng đụng đến những sáng kiến và năng động riêng từng mang lại sức
sống cho chúng; vì các phong trào vươn lên được, thiết yếu là nhờ một nguyên lý
bên trong, và rất dễ rã rời do tác động của một thành tố bên ngoài".
Sau
hết, tất cả các văn kiện nói trên đều có thể tìm thấy bản dịch tiếng Việt bằng
một thao tác đơn giản CLICK chuột. Xin mời bạn hãy thử:
Nhóm cổ vũ “Compendium”